Bản án 24/2021/HS-ST ngày 26/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 24/2021/HS-ST NGÀY 26/02/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 186/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 01 năm 2021 và Thông báo mở lại phiên tòa số 41/Tb-TA ngày 18 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Ngô Doãn D, sinh năm 1968 tại Hải Phòng. Đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 98/414 T, phường H, quận L, Hải Phòng; nơi tạm trú: Số 65 đường tàu C, phường H, quận L, Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 5/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Doãn K và bà Phạm Thị T (đều đã chết); có vợ là Nguyễn Thị C và có 01 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Có 05 tiền án (đều đã được xóa): Án số 146 ngày 19/9/1988, Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, 24 tháng thử thách về tội Trộm cắp tài sản của công dân; Án số 09 ngày 16/01/1992, Tòa án nhân dân quận Lê Chân xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân; Án số 352 ngày 22/10/1992, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân. Tổng hợp với 06 tháng tù tại bản án số 09 ngày 16/01/1992 của Tòa án nhân dân quận Lê Chân buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả 2 bản án là 03 năm tù; Án số 208 ngày 26/6/1995, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân; Án số 245 ngày 10/6/1999, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 54 tháng tù về tội Cướp giật tài sản; bị tạm giữ ngày 10/9/2020; tạm giam ngày 14/9/2020; thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp Bảo lĩnh ngày 15/9/2020; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ 15 phút ngày 18/6/2020, Tổ công tác thuộc Công an phường Hồ Nam phát hiện bắt quả tang Tô Anh Linh có hành vi cất giữ trái phép 0,74 gam Methamphetamine tại khu vực trước cửa nhà số 145 Chùa Hàng, quận Lê Chân, Hải Phòng. Tại Cơ quan điều tra xét hỏi Tô Anh Linh khai nhận: số ma túy bị thu giữ là do Linh mua vào khoảng 19 giờ cùng ngày của một nam giới tên D với giá 700.000 đồng tại 01 ngôi nhà ở khu vực đường tàu Cát Cụt.

Cơ quan điều tra tiến hành cho Tô Anh Linh xác định địa điểm, Linh xác định được ngôi nhà nơi Linh đã mua ma túy ngày 18/6/2020 là nhà số 65 đường tàu C, quận L, Hải Phòng. Tiến hành xác minh, tại ngôi nhà trên chỉ có Ngô Doãn D, sinh năm 1968, ĐKHKTT: số 98/414 T, phường H, quận L, Hải Phòng hiện đang sinh sống. Hồi 09 giờ ngày 10/9/2020, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét địa điểm nhà số 65 đường tàu C có sự chứng kiến của chủ nhà là Ngô Doãn D và thu giữ: 01 túi nilon màu trắng trong có 01 túi giả da màu đen kích thước 7x9cm bên trong có 02 túi nilon màu trắng có mép viền màu cam kích thước mỗi túi 4x6,5cm và 07 túi nilon màu trắng có mép viền màu xanh kích thước mỗi túi 3x3cm trong đều chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy tại vị trí dưới đất cạnh tủ lạnh; 01 túi nilon màu đen trong có 38 vỏ túi nilon mép viền màu cam kích thước 4x6,5cm và 35 vỏ túi nilon mép viền màu xanh kích thước 3x3cm tại vị trí dưới đất cạnh đệm ngủ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu đen trên đệm ngủ.

Ngày 10/9/2020, Ngô Doãn D bị bắt theo Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp số 31 ngày 10/9/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân.

Tại Cơ quan điều tra xét hỏi Ngô Doãn D khai nhận: Số ma túy bị thu giữ khi khám xét địa điểm nhà số 65 đường tàu Cát Cụt, quận Lê Chân, Hải Phòng là của D. Nguồn gốc số ma túy trên là vào khoảng 20 giờ ngày 09/9/2020, D mua của 01 nữ giới không quen biết ở khu vực đầu ngõ 229 Miếu Hai Xã với giá 2.800.000 đồng được 01 túi giả da màu đen trong có 09 túi nilon ma túy đá để sử dụng. D mang số ma túy trên về nhà, sử dụng hết một ít ma túy đá ở 01 túi nilon mép viền màu cam kích thước 4x6,5cm rồi lại cất vào túi giả da màu đen, để vào 01 túi nilon màu trắng cất giấu ở dưới đất cạnh tủ lạnh. Số vỏ túi nilon bị thu giữ D mua từ trước để ở nhà đựng thuốc tây để uống. D không bán ma túy cho ai, cũng không quen biết, không có quan hệ gì với nam giới tên là Tô Anh Linh. Cơ quan điều tra tiến hành đối chất, cả Ngô Doãn D và Tô Anh Linh đều giữ nguyên lời khai như đã nêu trên.

Tại Bản Kết luận giám định số 592/KLGĐ-MT ngày 14/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: “Tinh thể màu trắng trong tổng cộng 09 túi nilon thu giữ của Ngô Doãn D là ma túy, có khối lượng 10,13 gam, là loại Methamphetamine”.

Tại Bản cáo trạng số 11/CT-VKSLC ngày 23/12/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Ngô Doãn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Doãn D giữ nguyên lời khai như nội dung cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Ngô Doãn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như nội dung Bản Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Ngô Doãn D mức án từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng vỏ bao gói và lượng ma túy còn lại sau giám định (số 592/PC09/2020); 01 túi nilon màu trắng và 01 túi giả da màu đen; 73 vỏ túi nilon màu trắng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu đen đã cũ thu giữ của bị cáo (không còn giá trị sử dụng).

Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH về án phí lệ phí của Tòa án: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghe đại diện Viện Kiểm sát luận tội, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và tại lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm trở về hòa đồng với xã hội và cải tạo thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Về chứng cứ xác định bị cáo có tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản khám xét và vật chứng thu giữ; Bản kết luận giám định số 592/KLGĐ-MT ngày 14/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa; lời khai đó thể hiện: Ngày 10/9/2020, Ngô Doãn D có hành vi cất giữ trái phép 10,13 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân khám xét và thu giữ tại nhà số 65 đường tàu C, phường H, quận L, Hải Phòng. Đối với việc Tô Anh Linh khai đã mua ma túy của D ngày 18/6/2020, D không thừa nhận, ngoài lời khai của Linh không có tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh nên không có cơ sở để kêt luận. Tại phiên tòa Đại diện viện kiểm sát kết luận hành vi trên của bị cáo Ngô Doãn D đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong việc quản lý chất gây nghiện và là nguyên nhân gây lên các tệ nạn xã hội, các bệnh dịch nguy hiểm cho con người, bị xã hội lên án nên phải xử lý nghiêm.

- Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên nhân thân bị cáo đã có 05 tiền án, mặc dù cả 05 tiền án này đều đã được xóa nên lần phạm tội này không bị coi là tái phạm nhưng thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, cần buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần khi quyết định hình phạt.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì ngoài hình phạt chính bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[8] Đối với lượng ma túy còn lại và vỏ bao bì của mẫu vật thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu gửi giám định (đã được niêm phong trong bì thư niêm phong số 592/PC09/2020) xét là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.

[9] Đối với 01 túi nilon màu trắng và 01 túi giả da màu đen; 73 vỏ túi nilon màu trắng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu đen đã cũ thu giữ của bị cáo (không còn giá trị sử dụng) nên tịch thu tiêu hủy.

[10] Đối với nữ giới là người đã bán ma túy cho D, do D không biết họ tên, địa chỉ nên cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, xử lý.

[11] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Ngô Doãn D 07 (Bảy) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Bị cáo được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 10 tháng 9 năm 2020 đến 14 tháng 9 năm 2020.

Thời hạn bảo lĩnh đối với bị cáo Ngô Doãn D không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm bị cáo Ngô Doãn D đi chấp hành án phạt tù.

Căn cứ khoản Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại và vỏ bao bì của mẫu vật thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu gửi giám định (đã được niêm phòng trong bì thư niêm phong số 592/PC09/2020); 01 túi nilon màu trắng; 01 túi giả da màu đen; 73 vỏ túi nilon màu trắng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu đen đã cũ thu giữ của bị cáo.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/12/2020 giữa Cơ quan Công an quận Lê Chân và Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân).

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Ngô Doãn D phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

- Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 24/2021/HS-ST ngày 26/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:24/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;