Bản án 24/2021/HSST ngày 19/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 24/2021/HSST NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19/01/2021, tại trụ sở Tòa án nhân huyện Thuận Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2020/TLST-HS ngày 25/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2021/QĐXXST-HS ngày 07/01/2021 đối với bị cáo:

Lò Văn T; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1998 tại huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú : Bản H, xã C, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn B, sinh năm 1968 và bà: Lò Thị P, sinh năm 1971; Có vợ là: Lò Thị T, sinh năm 1998 và có 01 con 01 tuổi; Tiền sự: Không; Tiền án: không; Bị bắt tạm giam giữ từ ngày 12/9/2020 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Lò Văn B, sinh năm 1968, Nơi cư trú: Bản H, xã C, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 30 phút, ngày 12/9/2020, Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đang làm nhiệm vụ tại khu vực bản Ba Nhất I, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu phát hiện Lò Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ gồm: 01 gói ni lon màu trắng bên trong có chứa một ít bột cục màu trắng và 05 viên nén hình trụ tròn màu hồng (T khai là Heroine và hồng phiến)

Hồi 18 giờ 10 phút ngày 12/9/2020 tại Công an huyện Thuận Châu , tỉnh Sơn La đã tiến hành cân tịnh số ma túy thu giữ của Lò Văn T gồm: Chất bột cục màu trắng nghi là Heroine (gói bằng nilon màu trắng), có khối lượng 0,34 gam (ký hiệu T1) và 05 viên nén hình trụ tròn màu hồng nghi là ma túy tổng hợp, có khối lượng 0,48 gam (ký hiệu T2) gửi giám định chất và loại ma túy.

Tại bản kết luận giám định số: 1478 ngày 16/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma túy; loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,34 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu T2 là ma túy; loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,48 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ của Lò Văn T là: 0,34 gam Heroine và 0,48 gam Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định: Chất bột màu trắng thuộc mẫu giám định ký hiệu T1 và chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định, ký hiệu T2, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng T1 = 0,28 gam, T2 = 0,41 gam”

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu Lò Văn T đã khai nhận như sau: Khoảng 11 giờ, ngày 12/9/2020, T điều khiển 01 chiếc xe máy, biển kiểm soát 26K1- 9734, nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE đi từ nhà ở bản H, xã C, huyện Quỳnh Nhai đến bản Lọng Cại, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu để tìm mua ma túy sử dụng. T gặp và mua của một nam thanh niên không quen biết được một gói nilon màu trắng bên trong có chứa Heroine và 05 viên hồng phiến với giá 500.000 đồng. T cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe máy về nhà. Khi T đến khu vực bản Ba Nhất I, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu thì tổ công tác Công an huyện Thuận Châu yêu cầu dừng xe máy kiểm tra ma túy, phát hiện và thu giữ người cùng tang vật. Sau đó tổ công tác áp giải Lò Văn T về Trụ sở UBND xã Thôm Mòn lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại bản cáo trạng số: 08/CT-VKS ngày 25/12/2020, của Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu đã truy tố Lò Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, Lò Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố tại phiên tòa trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố Lò Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 20 đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị tuyên tiêu hủy: Một phong bì niêm phong gồm có: Hai mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; Một phong bì niêm phong gồm có: Mẫu gửi giám định còn lại ký hiệu T1 và T2 , T1 = 0,28 gam và T2 = 0,41 gam.

- Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả cho ông Lò Văn B 01 chiếc xe máy, BKS 26K1-9734, nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE, sơn màu xám - đen - trắng.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lò Văn B không biết việc T sử dụng xe đi mua ma túy, ông đã được Cơ quan điều tra công an huyện Thuận Châu trả lại chiếc xe máy, BKS 26K1-9734, nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE, sơn màu xám - đen - trắng và không có ý kiến tranh luận gì thêm.

Tại phiên tòa, Lò Văn T thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, trong lời nói sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 12/9/2020 Lò Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,34 gam chất ma túy, loại Heroine và 0,48 gam Methamphetamine trong người với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực bản Ba Nhất I, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Lời khai của bị cáo phù hợp với:

Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 10 giờ 00 phút ngày 12/9/2020; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại ngày 12/9/2020; Kết luận giám định số 1478 ngày 16/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La.

[2] Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận hành vi tàng trữ trái phép 0,34 gam chất ma túy, loại Heroine và 0,48 gam Methamphetamine trong người với mục đích để sử dụng của Lò Văn T đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương  Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe giáo dục đối với bị cáo, trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự.

[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[6] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Lò Văn T khai nhận mua của một nam thanh niên dân tộc Thái ở bản Lọng Cại, Thôm Mồn vào ngày 12/9/2020. Quá trình điều tra xác định T không biết họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của nam thanh niên này. Do đó, Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để điều tra, xử lý.

[7] Vật chứng vụ án: Một phong bì niêm phong gồm có: Hai mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; Một phong bì niêm phong gồm có: Mẫu gửi giám định còn lại ký hiệu T1 và T2 , T1 = 0,28 gam và T2 = 0,41 gam là vật Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe máy, biển kiểm soát 26K1- 9734, nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE, sơn màu xám - đen - trắng là phương tiện Tùng dùng vào việc phạm tội. Quá trình điều tra xác định, đăng ký xe máy mang tên ông Lò Văn B (bố đẻ bị cáo T), ông B không biết việc Tùng sử dụng xe đi mua ma túy, Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho ông B là có căn cứ, cần chấp nhận.

(Căn cứ vào điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự).

[8] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lò Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

[9] Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lò Văn T 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 12/9/2020).

Tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án theo quy định tai khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án:

Căn cứ vào điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tuyên tịch thu tiêu hủy:

Một phong bì thư có viền màu xanh đỏ, mặt trước ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn T - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 12/9/2020”. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 023819 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong và 02 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu: Hai mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

Một phong bì thư của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, mặt trước ghi: CÔNG AN TỈNH SƠN LA, PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, PHONG BÌ NIÊM PHONG. Vật chứng vụ: Lò Văn T - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 12/9/2020 tại xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, niêm phong hồi 15 giờ 00 phút ngày 20/9/2020 tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La gồm có: Các mẫu không sử dụng đến trong quá trình giám định, thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu T1, T2 có khối lượng T1 = 0,28 gam, T2 = 0,41 gam, mặt sau được dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số 000858 có đầy đủ chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và hai hình dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La.

- Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả cho ông Lò Văn B 01 chiếc xe máy, BKS 26K1- 9734, nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE, sơn màu xám - đen - trắng

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/12/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Thuận Châu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Châu).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lò Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo được quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình, trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 24/2021/HSST ngày 19/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:24/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;