Bản án 24/2021/HS-PT ngày 28/01/2021 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 24/2021/HS-PT NGÀY 28/01/2021 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 28 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 370/2020/TLPT-HS ngày 08/12/2020 đối với bị cáo Trần Thị H phạm tội “Chứa mại dâm”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 345/2020/HSST ngày 04/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Trần Thị H (Tên gọi khác: L), sinh năm 1958, tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: Số 124 N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; trình độ học vấn: 3/12; nghề nghiệp: Buôn bán; con ông Trần Ngọc L và bà Tôn Nữ Thị H (Đều đã chết); bị cáo có chồng là Trần Văn S (Đã chết); Bị cáo có 02 con, con lớn (Đã chết), con nhỏ sinh năm: 1985, hiện trú tại: Thôn 1, xã C, thành phố B; Tiền sự: Không; Tiền án: 02.

Tại Bản án số 536/2000/HSPT ngày 20/9/2000, bị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xử phạt 08 năm tù về tội “Chứa mại dâm”.

Tại Bản án số 89/2011/HSST ngày 24/3/2011, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 03 năm tù về tội “Chứa mại dâm”.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 02/7/2020 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có việc làm ổn định và cần tiền tiêu xài cá nhân, nên khoảng tháng 6/2019, Trần Thị H thỏa thuận miệng với bà Đỗ Thị Kim O thuê căn phòng phía trước của bà O, tại số 45N, phường T, thành phố B để mở tiệm cắt tóc Y. Sau đó, H không sử dụng để cắt tóc, mà để cho nhân viên làm địa điểm kích dục và bán dâm cho khách để thu lợi bất chính.

Ngày 07/02/2020, anh Nguyễn Văn H1 chở Lương Thị T đến gặp H để xin việc, được H đồng ý nên anh H1 đi về. Còn H và T thỏa thuận với nhau T sẽ ăn, ở tại tiệm cắt tóc Y, còn H sẽ nấu cơm nước, mua bao cao su cho T kích dục và bán dâm cho khách. Số tiền T có được từ việc kích dục và bán dâm cho khách thì H và T sẽ chia đôi mỗi người một nửa. Từ ngày 07/02/2020 đến ngày 10/02/2020, T đã bán dâm cho nhiều khách hàng là nam giới (Chưa rõ nhân thân, lai lịch) tại tiệm cắt tóc Y của H được tổng số tiền là 2.400.000 đồng, H và T chia nhau mỗi người được 1.200.000 đồng, T nhờ H giữ giúp số tiền 1.200.000 đồng, còn phần của H thì H đã tiêu xài cá nhân hết. Đến khoảng 15h00’ ngày 11/02/2020, Lê Văn Đ đến tiệm cắt tóc Y và thỏa thuận mua dâm với T một lần với số tiền 200.000 đồng thì được T đồng ý, T lấy bao cao su đã được H chuẩn bị sẵn từ trước đeo vào dương vật của Đ rồi cả hai quan hệ tình dục trên 01 tấm nệm được đặt trong tiệm cắt tóc Y. Hành vi mua dâm giữ T và Đ đã bị Công an phường T, thành phố B kiểm tra, phát hiện và lập biên bản. Tạm giữ tại hiện trường 01 bao cao su và 01 vỏ bao cao su hiệu PRETEX đã qua sử dụng, là tang vật của vụ án.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 345/2020/HSST ngày 04/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Căn cứ điểm c, h khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị H 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù giam về tội “Chứa mại dâm”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 02/07/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo của bị cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 10/11/2020, bị cáo Trần Thị H có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Thị H vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Thị H về tội “Chứa mại dâm” theo điểm c, h khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng người, đúng tội. Về mức hình phạt 06 năm 06 tháng tù mà bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo Trần Thị H là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi mà bị cáo đã thực hiện, bị cáo có 02 tiền án đều về tội “Chứa mại dâm” chưa được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, sửa đổi bản thân mà lại tiếp tục phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, đề nghị HĐXX căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 345/2020/HSST ngày 04/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Trần Thị H không có ý kiến tranh luận, bào chữa gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Thị H tại phiên toà phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã đủ cơ sở kết luận: Do mục đích tư lợi, nên từ ngày 07/02/2020 đến ngày 10/02/2020 Trần Thị H đã thỏa thuận để cho Lương Thị T mua bán dâm nhiều lần tại tiệm cắt tóc nam Y ở địa chỉ số 45 N, phường T, thành phố B do H quản lý, thu lợi bất chính số tiền 2.400.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trần Thị H về tội “Chứa mại dâm” quy định tại khoản 2 Điều 327 BLHS là đúng người, đúng tội.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, HĐXX xét thấy: Mức hình phạt 06 năm 06 tháng tù mà Toà án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Bởi lẽ, bị cáo có 02 tiền án đều về tội “Chứa mại dâm” chưa được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, sửa đổi bản thân mà lại tiếp tục phạm tội, bị cáo phạm tội với 02 tình tiết định khung hình phạt là “phạm tội 02 lần trở lên” và “tái phạm nguy hiểm” được quy định tại các điểm c, h khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, cần giữ nguyên Bản án sơ thẩm về hình phạt.

[3] Về án phí: Bị cáo Trần Thị H được miễn án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị H – Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 345/2020/HSST ngày 04/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

Áp dụng điểm c, h khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị H 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Chứa mại dâm”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 02/07/2020.

[2] Về án phí: Bị cáo Trần Thị H được miễn án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

314
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 24/2021/HS-PT ngày 28/01/2021 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:24/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;