TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN - TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 24/2020/HSST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2020/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Lô Văn M; tên gọi khác: Không; sinh năm 1964, tại xã H, huyện K, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: bản N, xã H, huyện K, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: Lớp 3/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lô Xén Ph và bà Lô Thị Xén Ph; có vợ là Lô Thị Thảo C và 06 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/8/2020 đến nay; hiện đang tạm giam; Có mặt.
2. Họ và tên: Lô Văn T; tên gọi khác: Không; sinh năm 1984, tại xã H, huyện K, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: bản N, xã H, huyện K, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: Lớp 8/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lô Xén Ph và bà Lô Thị Xén Ph; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/8/2020 đến nay; hiện đang tạm giam; Có mặt.
Người chứng kiến: Anh Lô Văn Kh; sinh năm 1984; trú tại: Bản N, xã H, huyện K, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lô Văn M khai: Vào khoảng 16 giờ, ngày 04/8/2020 Lô Văn M đi bộ một mình lên trên bản N, xã H, huyện K, tỉnh Nghệ An thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết, M đã hỏi và mua của người đàn ông đó 01 (Một) cục heroine được gói bằng bao potylen màu trắng với số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn). Mua được heroine, M đem về nhà và đập ra chia thành 26 (Hai mươi sáu) gói nhỏ được gói bằng giấy trắng có chữ, số heroine còn lại M gói lại bằng bao potylen màu trắng. Sau đó, M cất giấu số heroine trên vào trong người. Đến khoảng 12 giờ, ngày 05/8/2020, thì có Lô Văn T là em trai ruột đến nhà M chơi. Đến khoảng 15 giờ 30 phút, cùng ngày, khi M đang ở nhà của mình thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 (Một) cục chất màu trắng (Nghi là ma túy) được gói bằng bao potylen màu trắng:
26 (Hai mươi sáu) gói chất màu trắng (Nghi là ma túy) được gói bằng giấy trắng có chữ.
Lô Văn T khai: Vào khoảng 18 giờ, ngày 04/8/2020, T đang ở tại nhà của mình thì có Kha Văn Ph, sinh năm 1993, trú cùng bản N, xã H, huyện K, tỉnh Nghệ An đến chơi, T hỏi Ph có ma túy không cho T xin một ít, thì Ph đồng ý và lấy trong người ra đưa cho T 01 (Một) viên ma túy tổng hợp được gói bằng bao potylen màu trắng, T cầm lấy và cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc của mình. Đến khoảng 12 giờ, ngày 05/8/2020, T đi lên nhà Lô Văn M, là anh ruột của T chơi. Khi đang ngồi trên giường trong nhà M thì T lấy 01 (Một) viên ma túy tổng hợp ra để trên giường với mục đích là để sử dụng. Đến khoảng 15 giờ 30 phút, cùng ngày, khi T đang ở nhà của Lô Văn M thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 (Một) viên nén màu hồng (Nghi là ma túy) được gói bằng bao potylen màu trắng.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại của cơ quan CSĐT Công an huyện Kỳ Sơn lập ngày 05/8/2020 đã xác định: Số chất màu trắng (Nghi là ma túy) thu giữ của Lô Văn M có khối lượng 0,5gam (Không phẩy năm); Hội đồng đã trích 0,1 gam (Không phẩy một) chất màu trắng thu giữ của Lô Văn M để gửi đi giám định.
Viên nén màu hồng (Nghi là ma túy) thu giữ của Lô Văn T có khối lượng 0,1gam (Không phẩy một). Hội đồng đã trích 0,05 gam (Không phẩy không năm) từ viên nén màu hồng thu giữ của Lô Văn T để gửi đi giám định.
Kết luận giám định số 1139/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 08/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An đã kết luận: Mẫu chất màu trắng thu giữ của Lô Văn M gửi tới giám định là ma túy (Heroine); mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Lô Văn T gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine).
Tại cơ quan CSĐT Công an huyện Kỳ Sơn, Lô Văn M và Lô Văn T đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Về vật chứng của vụ án: Số ma tuý (Heroine) thu giữ của Lô Văn M là vật chứng còn lại có khối lượng 0,4gam (Không phẩy bốn) và số ma túy (Methamphetamine) thu giữ của Lô Văn T là vật chứng còn lại có khối lượng 0,05gam (Không phẩy không năm) cùng vỏ giấy niêm phong ban đầu đã được Cơ quan điều tra chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn bảo quản theo quy định.
Cáo trạng số: 155/CT-VKS-KS ngày 21/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn đã truy tố bị cáo Lô Văn M và Lô Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Lô Văn M và Lô Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt bị cáo Lô Văn M mức án từ 15 (Mười lăm) đến 21 (Hai mươi mốt) tháng tù; xử phạt bị cáo Lô Văn T mức án từ 12 (Mười hai) đến 15 (Mười lăm) tháng tù. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa, các bị cáo Lô Văn M, Lô Văn T đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo không có tranh luận gì.
Các bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dụng vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Các bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định pháp luật.
[2] Về việc vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt người chứng kiến. Do sự vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử là có căn cứ, đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Về hành vi của các bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình điều tra, các bị cáo Lô Văn M, Lô Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 05/8/2020, tại khu vực bản N, xã H, huyện K, tỉnh Nghệ An, Lô Văn M và Lô Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ của Lô Văn M 01 (Một) cục ma túy (Heroine) và 26 (Hai mươi sáu) gói ma túy (Heroine) có tổng khối lượng là 0,5gam (Không phẩy năm); thu giữ của Lô Văn T 01 (Một) viên ma túy (Methamphetamine) có tổng khối lượng là 0,1gam (Không phẩy một) nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi đó của các bị cáo Lô Văn M và Lô Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a)……………………………………………………….
c) Heroine, Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện. Khi phạm tội các bị cáo cũng nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm vì ma túy gây tác hại xấu đến đời sống kinh tế xã hội cũng như sức khỏe của con người và cũng làm mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác, nhưng các bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để tàng trữ trái phép làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, vì vậy hành vi đó phải được xử lý nghiêm minh, cần tuyên phạt các bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện, việc cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới đủ điều kiện để vừa tiếp tục cải tạo, giáo dục riêng các bị cáo vừa răn đe phòng ngừa chung.
Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Lô Văn M và Lô Văn T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên xét thấy cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là tiền cho các bị cáo.
[6] Trong vụ án này còn có người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho Lô Văn M. Quá trình điều tra, xác minh không xác định được danh tính cụ thể nên không có căn cứ để xử lý.
Đối với Kha Văn Ph, sinh năm 1993, trú tại bản N, xã H, huyện K, tỉnh Nghệ An là người đã cho Lô Văn T ma túy. Quá trình điều tra, xác minh Ph không có mặt tại địa phương nên cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra, xác minh khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.
[7] Về vật chứng vụ án: Số ma tuý (Heroine) là vật chứng còn lại có khối lượng 0,4gam (Không phẩy bốn) và số ma túy (Methamphetamine) còn lại có khối lượng 0,05gam (Không phẩy không năm) cùng vỏ giấy niêm phong ban đầu, đây là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần phải tịch thu tiêu hủy.
[8] Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.
[9] Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và mức hình phạt:
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lô Văn M 17 (Mười bảy) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 05/8/2020).
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lô Văn T 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 05/8/2020).
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy: Một phong bì thư bưu điện có viền xanh đỏ, trên mép dán có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong và ghi tên của Lô Văn M và Lô Văn T, bên trong có chứa 0,4gam (Không phẩy bốn) ma túy (Heroine) và 0,05gam (Không phẩy không năm) ma túy (Methamphetamine) cùng vỏ giấy niêm phong ban đầu. (Vật chứng đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 16 giờ 15 phút, ngày 22/10/2020 giữa Công an huyện Kỳ Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lô Văn M và Lô Văn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 26/11/2020)./.
Bản án 24/2020/HSST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 24/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về