Bản án 24/2020/HS-ST ngày 26/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 24/2020/HS-ST NGÀY 26/03/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26/3/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 17/2020/TLST-HS ngày 11/3/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2020/QĐXXST-HS ngày 11/3/2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn C - sinh năm 1987. Tên gọi khác: Không.

Nơi cư trú: thôn Vân An, xã Lương Phong, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: lớp 7/12.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không Con ông: Nguyễn Văn Chúc - sinh năm 1959.

Con bà: Thân Thị Thủy - sinh năm 1961.

Vợ, con: Chưa có.

Gia đình có 03 anh em, bản thân là con cả.

Tiền án: Bản án số 262/2012/HSST ngày 26/9/2012, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang xử phạt Chính 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và phạt bổ sung 5.000.000 đồng. Đến nay bị can chưa thi hành xong án phí và tiền phạt bổ sung.

Tiền sự: Không.

Nhân thân:Bản án số 09/2015/HSSTngày 09/02/2015,Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi, tỉnh KonTum xử phạt Chính 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị can thi hành xong hình phạt tù ngày 06/12/2016, thi hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 29/10/2016.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2019 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang ( Có mặt).

*Người làm chứng:

2.Anh Nguyễn Văn Sơn – Sinh năm: 1995 Trú tại: thôn Đông, Lương Phong, Hiệp Hòa, Bắc Giang.

3.Ông Nguyễn Văn Quang – Sinh năm: 1955 Trú tại: Vân An, Lương Phong, Hiệp Hòa, Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 45 phút ngày 17/12/2019, tại nhà ở của Nguyễn Văn C. Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Hiệp Hòa phối hợp cùng Công an xã Lương Phong, huyện Hiệp Hòa bắt quả tang Nguyễn Văn C đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ tại túi áo khoác bên trái áo của Chính đang mặc 02 túi ni lon màu trắng gồm:

- 01 túi nilon màu trắng một đầu có khóa rãnh bằng nhựa màu đỏ, bên trong chứa 48 viên nén màu hồng đỏ, trên mỗi mặt của các viên đều có chữ WY nghi là ma túy tổng hợp.

- 01 túi ni lon màu trắng một đầu có khóa rãnh màu đỏ chứa 02 túi nilon, trong đó có 01 túi nilon màu trắng một đầu có khóa rãnh bằng nhựa có đường viền màu đỏ bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá và 01 túi nilon màu trắng một đầu có khóa rãnh bằng nhựa bên trong chứa 18 viên nén màu hồng đỏ trên một mặt mỗi viên có chữ WY nghi là ma túy tổng hợp. Quá trình bắt quả tang Chính khai đó là ma túy Chính tàng trữ để sử dụng. Toàn bộ số vật chứng trên được niêm phong trong phong bì ký hiệu “QT”. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ của Chính 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen và 01 áo khoác màu đen đã qua sử dụng (BL10-13).

Cùng ngày 17/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp đồ vật, nơi ở của Nguyễn Văn C. Kết quả, không giữ gì (BL21-22).

Cơ quan điều tra đã tiến hành trưng cầu giám định số tang vật nghi là ma túy thu giữ khi bắt quả tang Chính được niêm phong trong phong bì ký hiệu “QT”. Tại kết luận giám định số 2018/KL-KTHS ngày 18/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

- Trong 01 phong bì có ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định: 01 túi nilon màu trắng một đầu có khóa rãnh bằng nhựa màu đỏ, bên trong chứa 48 viên nén màu hồng đỏ, trên mỗi mặt của các viên đều có chữ WY đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 4,841gam.

- Trong 01 túi ni lon màu trắng một đầu có khóa rãnh màu đỏ:

+ Tinh thể màu trắng đựng trong 01 túi nilon màu trắng một đầu có khóa rãnh bằng nhựa có đường viền màu đỏ là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 2,478gam.

+ 18 viên nén màu hồng đỏ trên một mặt mỗi viên có chữ WY đựng trong 01 túi nilon màu trắng một đầu có khóa đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 1,793gam.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn C khai nhận :

Do bản thân thường xuyên sử dụng ma túy tổng hợp nên cách hôm bị bắt khoảng 3-4 ngày, Chính đi nhờ xe mô tô của một người đàn ông không quen biết đến nhà Nguyễn Quang Tuấn - sinh năm 1971, trú tại thôn Nành Tón, xã Việt Ngọc, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang mua ma túy để sử dụng. Khi đến nơi, Chính gặp Tuấn ở cổng nhà Tuấn, Chính hỏi mua ma túy của Tuấn và đưa cho Tuấn 2.000.000 đồng (hai triệu đồng). Tuấn đưa cho Chính 01 túi ni lon màu đen chứa ma túy, Chính cầm gói ma túy Tuấn đưa đút vào túi áo rồi đi về nhà. Khi về đến nhà Chính mở gói ni lon chứa ma túy ra kiểm tra thì thấy bên trong có 02 túi ni lon, một túi chứa ma túy đá và 01 túi chứa ma túy tổng hợp dạng viên màu hồng đỏ, Chính lấy một số viên ma túy màu hồng đỏ ra bỏ vào một túi ni lon khác để sử dụng trước. Số ma túy mua được Chính cất giấu trong túi áo khoác mặc trên người. Số ma túy mua của Tuấn, Chính đã sử sụng 2-3 viên ma túy tổng hợp và một ít ma túy đá. Đến khoảng 09 giờ ngày 17/12/2019, khi Chính ở nhà và đang cất giấu ma túy tại túi áo khoác đang mặc thì bị Công an huyện Hiệp Hòa kiểm tra, bắt quả tang.

Cáo trạng số 26/CT-VKS-HH ngày 10/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, sau phần xét hỏi tại phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa thực hành quyền công tố đã luận tội đối với bị cáo, phân tích, đánh giá tính chất nguy hiểm của vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

1, Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 2, Về hình phạt: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51;điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Văn C từ năm đến năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 17/12/2019. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3,Về vật chứng: Áp dụng điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy :

+01 phong bì thư đựng vật chứng của vụ án được niêm phong bằng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang có chữ ký của Hoàng Xuân Phú và Đàm Văn Đạt và 01 Chiếc áo khoác màu đen đã qua sử dụng.

-Tịch thu xung quỹ nhà nước : 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

4, Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhận tội và không có tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Hiệp Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người làm chứng.... không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về sự vắng mặt của người làm chứng tại phiên tòa: Người làm chứng là Nguyễn Văn Sơn và ông Nguyễn Văn Quang đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt không có lý do, tuy nhiên đã có đầy đủ lời khai của họ trong hồ sơ nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng theo khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[3]: Về tội danh:

Hồi 09 giờ 45 phút ngày 17/12/2019, tại nhà ở của Nguyễn Văn C- sinh năm 1987 ở thôn Vân An, xã Lương Phong, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Chính đang có hành vi tàng trữ trái phép 9,112 gam ma túy Methamphetamine thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Hiệp Hòa phối hợp cùng Công an xã Lương Phong, huyện Hiệp Hòa bắt quả tang. Chính khai, mục đích tàng trữ số ma túy trên để sử dụng.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp về thời gian, không gian, địa điểm. Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa truy tố bị cáo theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội. Ma tuý là hiểm hoạ cho đời sống cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác, là nguy cơ lây truyền các căn bệnh xã hội như HIV, AIDS… Pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển… trái phép chất ma tuý. Đảng và Nhà nước ta đang quyết tâm loại trừ tệ nạn này.

Tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, do đó cần phải có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Việc sử dụng trái phép chất ma túy không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của bản thân bị cáo mà còn gây tổn thất về kinh tế cho gia đình, tác động tiêu cực đến đời sống xã hội. Do vậy cần phải có một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho loại tội phạm này.

4]. Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2015 bị Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi, tỉnh KonTum xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Năm 2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Bắc giang xử phạt bị cáo 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” bị cáo chưa chấp hành xong hình phạt của bản án này. Nay lại phạm tội do cố ý. Do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

[5]. Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6]. Xét về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản chung, riêng. Cần miễn hình phạt bổ xung cho bị cáo.

[7]. Đối với đối tượng tên là Nguyễn Quang Tuấn, Chính khai có hành vi bán ma túy cho Chính, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh và triệu tập Tuấn đến làm việc nhưng Tuấn không có mặt tại gia đình và địa phương, Tuấn đi đâu, làm gì không ai biết. Do vậy, Cơ quan điều tra tách hành vi của Tuấn ra để xem xét, xử lý sau [8]. Về vật chứng của vụ án gồm: Đối với 01 phong bì thư đựng vật chứng của vụ án được niêm phong bằng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang có chữ ký của Hoàng Xuân Phú và Đàm Văn Đạt và 01 Chiếc áo khoác màu đen đã qua sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, là phương tiện phạm tội, cần tịch thu xung quỹ nhà nước.

[9]. Cần tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[10]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định. Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; Điểm s, khoản 1 Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự;

1. Về tội danh:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt: Nguyễn Văn C: 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 17/1/2019.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, điểm c, khoản 1 Điều 47 BLHS.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư đựng vật chứng của vụ án được niêm phong bằng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang có chữ ký của Hoàng Xuân Phú và Đàm Văn Đạt và 01 Chiếc áo khoác màu đen đã qua sử dụng - Tịch thu xung quỹ nhà nước : 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong,

4. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án: Bị cáo Đoàn Văn Tân phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Lụât Thi hành án dân sựthời hiêụ thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 24/2020/HS-ST ngày 26/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:24/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;