Bản án 24/2020/HS-ST ngày 13/05/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, NINH BÌNH

BẢN ÁN 24/2020/HS-ST NGÀY 13/05/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 13 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 18/2020/TLST- HS ngày 25 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo Nguyễn Văn L (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1983 tại xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo Thiên chúa; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 1/12; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1958; có vợ là Nguyễn Thị T và có 02 con (con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2008). Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 15/9/2019 Nguyễn Văn L bị Công an xã L, huyện N xử phạt 1.000.000 đồng hành vi đánh bạc. Nguyễn Văn L đã thi hành xong ngày 23/09/2019. .

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Bị cáo Nguyễn Văn T (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1993 tại xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo Thiên chúa; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12; con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Quách Thị G, sinh năm 1948; có vợ là Nguyễn Thị N và có 02 con (con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014). Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 15/9/2019 bị Công an xã L, huyện Nxử phạt 1.000.000 đồng hành vi đánh bạc. Nguyễn Văn T đã thi hành xong ngày 23/09/2019.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nguyễn Văn T2, sinh năm 1988. Địa chỉ: Thôn P, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt)

+ Anh Lê Văn C, sinh năm 1990. Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt)

+ Anh Vũ Văn Q, sinh năm 1997. Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt)

+ Anh Vũ Văn H, sinh năm 1997. Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt)

+ Anh Nguyễn Tiến T, sinh năm 1988. Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt)

+ Anh Nguyễn Văn T3, sinh năm 1979. Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt)

+ Anh Vũ Ngọc D, sinh năm 1995. Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt)

- Người chứng kiến:

+ Anh Nguyễn Văn T4, sinh năm 1993. (Vắng mặt) + Anh Nguyễn Văn T5, sinh năm 1988. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 29/01/2020, Nguyễn Văn T rủ Nguyễn Văn L; Nguyễn Văn T2 sinh năm 1988, trú tại thôn P, xã V, huyện N; Lê Văn C sinh năm 1990; Vũ Văn Q sinh năm 1997; Vũ Văn H sinh năm 1997 đều trú tại thôn Đ, xã L, huyện N đến nhà ăn cơm uống rượu. Sau đó thì Nguyễn Văn L đi về trước, khi về đến nhà thì gặp bạn là Nguyễn Văn T3 sinh năm 1979, trú tại thôn Đ, xã L, huyện Nđang ngồi uống nước ở nhà mình. Sau đó L rủ T3 quay lại nhà của T chơi. Khoảng 21h30 phút cùng ngày khi L, T3 đến nhà thì thấy Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T2, Lê Văn C, Vũ Văn Q và Vũ Văn H đã ăn uống xong đang ngồi uống nước. Sau đó Vũ Văn H đã rủ mọi người đánh bạc thì Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T2, Lê Văn C, Vũ Văn Q, Nguyễn Văn T3 đồng ý. Vũ Văn H là người lấy kéo cắt 04 quân vị làm từ vỏ bao thuốc lá còn Nguyễn Văn L đi về nhà lấy 01 bát sứ, 01 đĩa sứ cầm tới nhà T làm công cụ đánh bạc. Sau khi chuẩn bị song thì Vũ Văn H, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T2, Lê Văn C, Vũ Văn Q và Nguyễn Văn T3 rủ nhau ra đường liên thôn khu vực trước cửa nhà anh Nguyễn Văn T5 sinh năm 1988, trú tại thôn Đ, xã L, huyện Nngồi đánh bạc.

Trước khi vào đánh bạc Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T2, Lê Văn C, Vũ Văn Q, Nguyễn Văn T3 và Vũ Văn H thống nhất đánh bạc bằng hình thức đánh “Xóc đĩa” được thua bằng tiền. Mỗi người tham gia đánh bạc đặt cược trong mỗi ván bạc thấp nhất từ 10.000 đồng cao nhất là 50.000 đồng. Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T2, Lê Văn C, Vũ Văn Q, Nguyễn Văn T3, Vũ Văn H bắt đầu ngồi đánh bạc từ 21 giờ 40 phút ngày 29/01/2020. Do trời tối không nhìn rõ nên Nguyễn Văn T3 vừa tham gia đánh bạc vừa sử dụng điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen của mình bật đèn sáng để soi cho mọi người tham gia đánh bạc. Nguyễn Văn L là người cầm cái xóc đĩa để Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T2, Lê Văn C, Vũ Văn Q, Nguyễn Văn T3, Vũ Văn H tham gia đánh bạc. Quá trình đánh bạc thì có Nguyễn Tiến T sinh năm 1988, trú tại thôn Đ, xã L, huyện N; Vũ Ngọc D sinh năm 1995, trú tại thôn Đ, xã L, huyện N lần lượt đến tham gia đánh bạc cùng mọi người. Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T2, Lê Văn C, Vũ Văn Q, Nguyễn Văn T3, Vũ Văn H, Nguyễn Tiến T, Vũ Ngọc D đánh bạc đến khoảng 22 giờ 10 phút cùng ngày đã bị Tổ công tác Công an xã L phát hiện bắt giữ. Thu giữ tại vị trí những người ngồi tham gia đánh bạc số tiền 3.640.000 đồng, 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị và 01 điện thoại Nokia 1280 màu đen của Nguyễn Văn T3.

Cơ quan điều tra đã chứng minh tổng số tiền mà Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T2, Lê Văn C, Vũ Văn Q, Nguyễn Văn T3, Vũ Văn H, Nguyễn Tiến T, Vũ Ngọc D sử dụng để đánh bạc là 3.640.000 đồng. Riêng Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn L đều có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc chưa được xóa nên T, L phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Về vật chứng đã thu giữ:

Đối với số tiền 3.640.000 đồng, 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị và 01 điện thoại Nokia 1280 màu đen của Nguyễn Văn T3 là vật chứng của vụ án. Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã ra Quyết định chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện N để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 22/CT –VKSNQ- HS ngày 23/03/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn T ra trước tòa để xét xử về tội “ Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn T phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 22.000.000 đồng đến 23.000.000 đồng.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 22.000.000 đồng đến 23.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền và sử dụng vào việc đánh bạc là 3.640.000 đồng. Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại Nokia 1280 màu đen của Nguyễn Văn T3.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N.

Lời nói sau cùng của bị cáo biết lỗi về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản vi phạm hành chính, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với tang vật đã thu giữ. Mặt khác được chứng minh qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận: Trong khoảng thời gian từ 21 giờ 40 phút đến 22 giờ 10 phút ngày 29/01/2020, tại đường liên thôn khu vực trước cửa nhà anh Nguyễn Văn T5 ở thôn Đ, xã L, huyện N. Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn T là người đang có 01 tiền sự về hành vi “Đánh bạc” chưa được xóa đã cùng với Vũ Văn H, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn T2, Lê Văn C, Vũ Văn Q, Nguyễn Tiến T, Vũ Ngọc D đánh bạc bằng hình thức đánh “Xóc đĩa” được thua bằng tiền với số tiền sử dụng để đánh bạc là 3.640.000 đồng.

Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Điều 321. Tội đánh bạc 1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

………………………………………… 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Nvẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, nhân thân vai trò của các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, xét thấy:

Hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh “Xóc đĩa” được thua bằng tiền của các bị cáo là cố ý, tính chất tội phạm là ít nghiêm trọng đã xâm phạm trật tự an toàn công cộng, ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an ở địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân là nguyên nhân gây nên nhiều tội phạm khác.

Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi đánh bạc bị pháp luật cấm nhưng vẫn cố tình thực hiện. Các bị cáo là người đang có tiền sự về tội Đánh bạc chưa được xóa, nhưng các bị cáo vẫn tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án thật nghiêm như vậy mới có tác dụng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, răn đe phòng ngừa tội phạm chung cũng như giúp các bị cáo có thời gian cải tạo rèn luyện mình trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên xét các bị cáo phạm tội lần đầu, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi mình đã thực hiện. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Riêng đối với bị cáo Nguyễn Văn T có bố đẻ là ông Nguyễn Văn H là người có công với cách mạng(là thương binh hạng 4/4) vì vậy bị cáo T được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có. Mặt khác số tiền đánh bạc của bị cáo không lớn. Từ những nhận định trên xét thấy không cần cách ly các bị cáo khỏi địa phương mà chỉ cần áp dụng hình phạt chính là để các bị cáo cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng răn đe và giáo dục đối với các bị cáo.

Trong vụ án này, cả hai bị cáo đều giữ vai trò thực hành tích cực, tuy nhiên bị cáo Nguyễn Văn L còn là người có vai trò chuẩn bị công cụ phương tiện để đánh bạc, vì vậy bị cáo L phải chịu trách nhiệm cao hơn bị cáo T.

Đối với Vũ Văn H, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn T2, Lê Văn C, Vũ Văn Q, Nguyễn Tiến T, Vũ Ngọc D tham gia đánh bạc cùng với Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn L với số tiền sử dụng để đánh bạc là 3.640.000 đồng. Xét số tiền 3.640.000 đồng là không đủ lượng để khởi tố. Xét về nhân thân Vũ Văn H, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn T2, Lê Văn C, Vũ Văn Q, Nguyễn Tiến T, Vũ Ngọc D đều không có tiền án, tiền sự về tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Công an huyện N đã ra quyết định xử phạt hành chính là phù hợp.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Cần áp dụng hình phạt bổ sung với các bị cáo. [4]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với số tiền 3.640.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn T và các đối tượng khác. Đây là số tiền dùng vào việc đánh bạc vì vậy cần tịch thu sung ngân sách nhà nước - Đối với 01 điện thoại Nokia 1280 màu đen của Nguyễn Văn T3, quá trình điều tra chứng minh T3 dùng để soi cho các đối tượng đánh bạc vì vậy xác định đây là vật chứng có liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

- Đối với 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị có liên quan đến hành vi phạm tội, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[5]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn T phạm tội “Đánh bạc”.

* Áp dụng: Khoản 1, khoản 3 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn tính từ ngày UBND xã L nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Khấu trừ 7% thu nhập hàng tháng của bị cáo trong thời gian cải tạo Giao bị cáo cho UBND xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã L trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

*Áp dụng: Khoản 1, khoản 3 Điều 321; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn tính từ ngày UBND xã L nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng của bị cáo trong thời gian cải tạo Giao bị cáo cho UBND xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã L trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

* Về hình phạt bổ sung:

- Phạt bị cáo Nguyễn Văn L 10.000.000 đồng nộp ngân sách nhà nước.

- Phạt bị cáo Nguyễn Văn T 10.000.000 đồng nộp ngân sách nhà nước.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị;

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 3.640.000 đồng - Tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại Nokia 1280 màu đen .

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày và ủy nhiệm chi giữa Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc các bị cáo Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn T mỗi bị cáo phải nộp án phí là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Án xử công khai sơ thẩm các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 24/2020/HS-ST ngày 13/05/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:24/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;