Bản án 24/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 24/2020/HS-ST NGÀY 10/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyên Mộc Châu , tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Bàn Đức N, sinh ngày: 16/02/2001 tại huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản S, xã L, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Dao; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Học sinh; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Bàn Văn Q, sinh năm 1980; con bà Lý Thị H, sinh năm 1979; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/8/2020 cho đến nay, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Vì Thị Hải Y, sinh ngày 26/10/2004; nơi cư trú: Bản Á, xã Đ, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; có mặt.

Người đại diện hợp pháp của chị Vì Thị Hải Y: Bà Hoàng Thị M, sinh năm 1986; trú tại: Bản Á, xã Đ, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; có mặt.

2. Ông Bàn Văn Q, sinh năm 1980; nơi cư trú: Bản S, xã L, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 20 phút ngày 04/8/2020 tổ Công tác Công an huyện Mộc Châu làm nhiệm vụ tại tiểu khu 3, thị trấn Mộc Châu, huyện Mộc Châu kiểm tra đối với Bàn Đức Nhuận đang điều khiển xe máy biển kiểm soát 26P1-058.29, qua kiểm tra phát hiện N cất giấu trong người 01 gói nilon bên trong đựng 04 viên nén màu hồng, N khai đó là ma túy của N cất giấu để bán kiếm lời, N khai còn cất giấu 01 viên hồng phiến tại phòng trọ của N.

Mở rộng điều tra, cùng ngày Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Bàn Đức N đã phát hiện thu giữ 01 gói nilon màu hồng đựng 01 viên nén màu hồng, nghi là Methamphetamine.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã thu giữ của Vì Thị Hải Y số tiền 30.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6.

Ngày 04/8/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã tiến hành cân tịnh xác định khối lượng số vật chứng nghi là ma túy thu giữ của Bàn Đức N như sau:

+ 04 viên nén màu hồng thu giữ khi bắt quả tang có khối lượng 0,38 gam, lấy 02 viên có khối lượng 0,18 gam làm mẫu trưng cầu giám định, ký hiệu N.

+ 01 viên nén màu hồng thu giữ tại phòng trọ của Bàn Đức Nhuận có khối lượng 0,10 gam, lấy toàn bộ làm mẫu trưng cầu giám định, ký hiệu Y.

Tại kết luận giám định số 1278 ngày 06/8/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu N, Y đều là ma túy; loại Methamphetamine, khối lượng mẫu gửi giám định N = 0,18 gam, Y = 0,10 gam; tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,48 gam, loại Methamphetamine; hoàn lại đối tượng giám định có khối lượng: N = 0,10 gam, Y = 0,05 gam.

Quá trình điều tra Bàn Đức N, Vì Thị Hải Y khai nhận: Bàn Đức N thuê nhà trọ tại bản B, xã Đông Sang, huyện Mộc Châu và có mối quan hệ quen biết với Vì Thị Hải Y, sinh ngày 26/10/2004.

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 04/8/2020, N gặp một người đàn ông không quen biết khoảng 20 tuổi hỏi N biết chỗ nào bán ma túy không thì đi mua sẽ trả công cho N một nửa số ma túy mà N mua được, N đồng ý và thống nhất sẽ gặp nhau ở khu vực cổng trường THPT Nội trú huyện Mộc Châu để đưa ma túy, người đàn ông đó đưa cho N số tiền 450.000 đồng. N nhắn tin cho Vì Thị Hải Y qua tài khoản Facebook của Y để rủ Y cùng đi mua ma túy, Y đồng ý.

Sau đó N điều khiển xe máy biển kiểm soát 26P1 – 058.29 (xe của bố N là ông Bàn Văn Q) đi đón Y và cùng Y đi đến bản Co Sung, xã Đông Sang, trên đường đi N đưa cho Yến số tiền 450.000 đồng, N và Y đi vào nhà một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết, Y hỏi và mua được của người đàn ông 01 gói nilon màu hồng bên trong đựng 08 viên hồng phiến với giá 400.000 đồng, còn lại 50.000 đồng Y giữ lại. Sau khi mua được ma túy, Y và N đã sử dụng 03 viên, còn lại 05 viên Y chia ra làm 02 gói, một gói đựng 04 viên, một gói đựng 01 viên. Sau đó Nhuận điều khiển xe máy chở Y đi về phòng trọ của N. Khi về đến phòng trọ, Y đưa cho N gói nilon màu hồng bên trong đựng 04 viên Methamphetamine để N mang đến khu vực cổng Trường Phổ thông dân tộc Nội trú huyện Mộc Châu giao cho người đàn ông đã đưa tiền cho N. Sau khi N đi giao ma túy, Y đã để gói nilon màu hồng bên trong đựng 01 viên Methamphetamine lên mặt bàn nhựa trong phòng trọ của N rồi đi về nhà. Khi N đang điều khiển xe máy đi đến tiểu khu 3, thị trấn Mộc Châu, huyện Mộc Châu thì bị tổ công tác Công an huyện Mộc Châu kiểm tra phát hiện và thu giữ vật chứng: 01 gói nilon màu bên trong đựng 04 viên nén màu hồng; 01 điện thoại nhãn hiệu NOIKA; 01 xe máy nhãn hiệu HONDA loại BLADE biển kiểm soát 26P1-058.29 cùng đăng ký xe máy mang tên Bàn Văn Q (Đều đã qua sử dụng).

Đối với Vì Thị Hải Y là người thực hiện hành vi mua bán trái phép ma túy cùng với Bàn Đức N, khi thực hiện hành vi mua ma túy Vì Thị Hải Y mới 15 tuổi 09 tháng 08 ngày. Căn cứ Điều 12 Bộ luật hình sự thì hành vi của Vì Thị Hải Y không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Bản cáo trạng số 179/CT-VKS ngày 26 tháng 10 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La truy tố Bàn Đức N về tội: Mua bán trái phép chất ma túy, theo điểm e khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Bàn Đức Nhuận phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Bàn Đức N từ 07 năm tù đến 07 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Căn cứ điểm b, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm a, b, c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Chấp nhận việc cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã trả lại 01 xe máy nhãn hiệu Honda Blade, màu sơn xanh đen, biển kiểm soát 26P1 – 058.29 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe máy số 007251 mang tên Bàn Văn Q cho ông Bàn Văn Q.

Tịch thu tiêu hủy: 01 sim điện thoại số 0869064210 (nắp trong máy điện thoại NOIKA thu của Bàn Đức N).

- 01(Một) phong bì niêm phong, bên trong đựng 02 viên = 0,20 gam Methamphetamine, mảnh nilon màu đen, mảnh nilon màu hồng và 02 vỏ phong bì niêm phong ban đầu;

- 01(Một) phong bì niêm phong, bên trong gồm mẫu hoàn lại sau giám định có khối lượng N = 0,10 gam, Y = 0,05 gam;

- 01 (Một) phong bì niêm phong bên trong đựng Test thử ma túy đối với Bàn Đức Nhuận;

- 01 (Một) phong bì niêm phong bên trong đựng Test thử ma túy đối với Vì Thị Hải Y.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA của Bàn Đức N; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6 và số tiền 30.000đ (Ba mươi nghìn đồng) thu giữ của Vì Thị Hải Y.

Truy thu đối với Vì Thị Hải Y do chị Hoàng Thị M (mẹ đẻ của Y) là người đại diện hợp pháp số tiền 20.000đ (Hai mươi nghìn đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.

- Về án phí: Bị cáo thuộc hộ cận nghèo và có đề nghị được miễn án phí hình sự sơ thẩm, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hoàn toàn nhất trí với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát.

Bị cáo có lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ mức hình phạt và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2 Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Bàn Đức N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra, số ma túy bị thu giữ là Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,48 gam, nguồn gốc là do ngày 04/8/2020 Nhuận nhận 450.000 đồng của một người đàn ông không quen nhờ đi mua ma túy, Nhuận đã rủ Vì Thị Hải Y, sinh ngày 26/10/2004 cùng nhau đi mua số ma túy của người đàn ông dân tộc Mông không quen biết với giá 400.000 đồng, mục đích hưởng lợi 50.000 đồng và ma túy để sử dụng, trên đường Nhuận mang ma túy đi bán ma túy thì bị phát hiện bắt giữ. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Công an huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La lập hồi 16 giờ 30 phút, ngày 04/8/2020; biên bản khám xét; biên bản thu giữ vật chứng, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định, bản kết luận giám định số 1278 ngày 06/8/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận là chất ma túy, loại Methamphetamine. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ của cơ quan điều tra đã thu thập được trong hồ sơ.

3 Khung hình phạt áp dụng: Bị cáo rủ rê, lôi kéo Vì Thị Hải Y sinh ngày 26/10/2004 là người dưới 16 tuổi vào việc thực hiện hành vi mua, bán chất ma túy khối lượng 0,48 gam, loại Methamphetamine, đã vi phạm điểm e khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo xúi giục người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội, xác định là tình tiết định khung nên không áp dụng tình tiết tăng nặng đối với bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có ông ngoại, bà nội tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước được Nhà nước tặng thưởng Huy chương Cựu chiến binh Việt Nam, Huân chương chiến sỹ vẻ vang; Huy chương kháng chiến hạng nhì là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, nhận thức rõ tác hại của ma tuý bị Nhà nước nghiêm cấm, nhưng do nghiện ma túy coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội rất nghiêm trọng.

Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện, có ích cho xã hội, mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung nhất là công tác phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm về ma túy trong giai đoạn hiện nay.

4 Vê hinh phat bô sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình điều tra và xét hỏi công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có tài sản, sống phụ thuộc vào gia đình nên không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo là phù hợp.

5 Về vật chứng:

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Honda Blade, biển kiểm soát 26P1 – 058.29 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe máy số 007251 mang tên Bàn Văn Q. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định chiếc xe máy là tài sản hợp pháp của ông Bàn Văn Q (bố đẻ N). Việc bị cáo N sử dụng xe máy làm phương tiện phạm tội ông Quyết không biết nên không có lỗi, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã trả lại xe máy và giấy chứng nhận xe máy cho ông Q quản lý sử dụng là đúng quy định của pháp luật, cần chấp nhận.

Đối với 01 phong bì niêm phong, bên trong đựng mẫu N = 0,10 gam, Y = 0,05 gam; 01 phong bì niêm phong, bên trong đựng 02 viên = 0,20 gam, mảnh nilon màu đen, mảnh nilon màu hồng và vỏ gói niêm phong ban đầu; 02 phong bì niêm phong bên trong đựng Test thử ma túy đối với Bàn Đức N; Vì Thị Hải Y; 01 sim điện thoại số 0869064210 (nắp trong máy điện thoại NOIKA thu của Bàn Đức N). Xét là vật bị Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, cùng vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA thu giữ của Bàn Đức N và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 thu giữ của Vì Thị Hải Y. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo N và Y đã sử dụng làm phương tiện phạm tội, cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với số tiền 30.000 đồng thu giữ của Vì Thị Hải Y. Xét là tiền do phạm tội mà có, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Đối với số tiền 20.000 đồng, Vì Thị Hải Y đã chi tiêu cá nhân hết, cần truy thu nộp ngân sách Nhà nước.

6 Về các vấn đề khác:

Đối với người đàn ông đưa tiền cho Bàn Đức N để mua ma túy và người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho Bàn Đức N và Vì Thị Hải Y như N và Y đã khai, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ, do đó không có căn cứ điều tra làm rõ. Vì vậy buộc bị cáo Bàn Đức N phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

7 Về án phí:

Bị cáo Bàn Đức Nhuận thuộc hộ cận nghèo. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Cần miễn án phí đối với bị cáo.

[8] Thơi han tam giam của bi cao còn lại trên 45 ngày do đó Hội đồng xét xử không ra quyết định tạm giam sau phiên tòa.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Bàn Đức N phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Bàn Đức N 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/8/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm b, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy:

- 01(Một) phong bì niêm phong, bên trong đựng 02 viên = 0,20 gam Methamphetamine, mảnh nilon màu đen, mảnh nilon màu hồng và 02 vỏ phong bì niêm phong ban đầu;

- 01(Một) phong bì niêm phong, bên trong gồm mẫu hoàn lại sau giám định có khối lượng N = 0,10 gam, Y = 0,05 gam;

- 01 (Một) phong bì niêm phong bên trong đựng Test thử ma túy đối với Bàn Đức N;

- 01 (Một) phong bì niêm phong bên trong đựng Test thử ma túy đối với Vì Thị Hải Y.

- 01 (Một) sim điện thoại số 0869064210 (nắp trong máy điện thoại NOIKA thu của Bàn Đức N).

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA của Bàn Đức N; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6 và số tiền 30.000đ (Ba mươi nghìn đồng) thu giữ của Vì Thị Hải Y.

Truy thu đối với Vì Thị Hải Y do chị Hoàng Thị M (mẹ đẻ của Y) là người đại diện hợp pháp số tiền 20.000đ (Hai mươi nghìn đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.

Chấp nhận việc cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã trả lại 01 xe máy nhãn hiệu Honda Blade, màu sơn xanh đen, biển kiểm soát 26P1 – 058.29 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe máy số 007251 cho Bàn Văn Q, quản lý, sử dụng.

3. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Bàn Đức N.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cùng người đại diện hợp pháp được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 10/11/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 24/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:24/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;