Bản án 24/2020/HNGĐ-ST ngày 29/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 24/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 156/2020/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 36/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị T - Sinh năm 1990.

Đa chỉ: Thôn 4, xã Đông K, huyện Đông S, tỉnh Thanh Hóa.

- Bị đơn: Anh Vũ Mạnh C - Sinh năm 1990.

Đa chỉ: 21/28 Ngô T, phường Lam S, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa có mặt chị T, vắng mặt anh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, được bổ sung tại bản tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Lê Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị Lê Thị T và anh Vũ Mạnh C kết hôn với nhau năm 2009, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Lam S, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại 21/28 Ngô T, phường Lam S, thành phố Thanh Hóa đến năm 2010 thì vợ chồng chị chuyển vào thành phố V làm ăn sinh sống. Từ năm 2015 vợ chồng chị bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, ngoài ra anh C còn ham chơi cờ bạc, không quan tâm đến gia đình, vợ con dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, đánh nhau nên chị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại thôn 4, xã Đông K, huyện Đông S, tỉnh Thanh Hóa sinh sống. Đến cuối năm 2018 anh C quay về sinh sống tại 21/28 Ngô T, phường Lam S, thành phố Thanh Hóa cùng với bà ngoại cho đến nay. Từ khi anh C về Thanh Hóa sinh sống anh chị có gặp nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng tuy nhiên mâu thuẫn của vợ chồng chị vẫn không được giải quyết mà ngày càng trầm trọng hơn. Vợ chồng chị đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị T xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh C.

Về con chung: Chị Tốt và anh C có 01 con chung là cháu Vũ Hoài K, sinh ngày 07/12/2008. Ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi cháu K và không yêu cầu anh C cấp dưỡng tiền nuôi con chung với chị vì hiện nay chị đang có công ăn việc làm và chỗ ở ổn định, thu nhập từ 6.000.000/tháng.

Về tài sản, công nợ chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh C đến Tòa án để làm bản tự khai và tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh C không có mặt tại Tòa án để làm bản tự khai và tham gia phiên họp.

Tại phiên tòa, chị T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đi diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn đã tuân thủ thủ đúng quy định của pháp luật, bị đơn không đến Tòa án làm việc theo giấy triệu tập và thông báo của Tòa án là không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng. Về yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị T, giao cháu Hoài K cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh C không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung với chị T; về phần tài sản, công nợ chung chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Đây là tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn, bị đơn có nơi cư trú tại thành phố Thanh Hóa, việc Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa thụ lý, giải quyết là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Bị đơn là anh Vũ Mạnh C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, do vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt đối với anh C.

[3] Về hôn nhân: Chị T và anh C kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, ngoài ra anh C còn ham chơi, không tu chí làm ăn, không quan tâm đến gia đình vợ con. Vợ chồng anh chị đã sống ly thân nhau từ năm 2015 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Anh C đã được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh C đã không có mặt tại Tòa án để tham gia phiên họp chứng tỏ anh cũng không tha thiết hòa giải để đoàn tụ gia đình. Nay chị T xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh C không còn, tại phiên tòa chị tha thiết đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh C. Thu thập chứng cứ tại địa phương phản ánh: quá trình chị T và anh C sinh sống tại địa phương vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn. Tại biên bản lấy lời khai của bà Nguyễn Thị H (bà ngoại của anh C) là người sinh sống cùng nhà với anh C và chị T, bà H có trình bày: sau khi kết hôn anh C và chị T có sinh sống cùng với bà, đến năm 2015 thì cuộc sống vợ chồng anh chị có phát sinh mâu thuẫn, anh chị đã sống ly thân nhau từ năm 2015 cho đến nay. Xét thấy mâu thuẫn của chị T và anh C đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu của chị T, cho chị được ly hôn anh C là có căn cứ.

[4]. Về con chung: Chị T và anh C có một con chung là cháu Vũ Hoài K, sinh ngày 07/12/2008. Kể từ khi chị T và anh C sống ly thân cho đến nay cháu K vẫn sống cùng với mẹ, chị T vẫn nuôi dạy cháu bảo đảm về mọi mặt. Hiện nay chị T có thu nhập và chỗ ở ổn định, ngoài ra cháu K cũng có nguyện vọng được ở cùng với mẹ. Vì vậy yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu K và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung của chị T có cơ sở để chấp nhận.

[5]. Về tài sản, công nợ: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6]. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, khoản 1 điều 273, khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị T được ly hôn anh Vũ Mạnh C.

Về con chung: Chị T và anh C có một con chung là cháu Vũ Hoài K, sinh ngày 07/12/2008, ly hôn giao cháu K cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung với chị T.

Anh C có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản, công nợ: chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Lê Thị T phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trả lại số tiền tạm ứng án phí 300.000đ chị Đ nộp theo biên lai số AA/2018/0000924 ngày 27/3/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa (chị T đã nộp đủ án phí).

Ngun đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận (hoặc ngày niêm yết) bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 24/2020/HNGĐ-ST ngày 29/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:24/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;