TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU – TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 24/2020/HNGĐ-ST NGÀY 03/07/2020 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI NUÔI CON
Ngày 03 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 05/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 01 năm 2020 về việc “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2020 giữa:
1. Nguyên đơn: Ông Phạm Văn H, sinh năm 1983. Có mặt
Địa chỉ cư trú: Ấp X, xã Y, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh.
2. Bị đơn: Bà Đặng Thị K, sinh năm 1979. Có mặt
Địa chỉ cư trú: Ấp X, xã Y, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 31/12/2019 và trong quá trình làm việc, nguyên đơn - ông Phạm Văn H trình bày:
Ông Phạm Văn H và bà Đặng Thị K ly hôn vào năm 2019. Tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của các đương sự số: 69/2019 ngày 10/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu đã quyết định giao cho bà Đặng Thị K trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu Phạm Thị Bảo M, sinh ngày 08/4/2013 và Phạm Thị N, sinh ngày 05/7/2014 đến khi thành niên. Tuy nhiên, trong quá trình trông nom hai cháu thì bà K chăm sóc không tốt, cụ thể là để cho cháu M bị tai nạn giao thông, cấp cứu nhưng bà K không chăm sóc, không lo chi phí điều trị. Ngoài ra, bà K làm công việc thời vụ ở vương quốc Campuchia, thu nhập không ổn định và thường xuyên không có thời gian chăm sóc. Tại đơn khởi kiện ngày 31/12/2019, ông H yêu cầu được nuôi cháu M, cháu N. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa, ông H cho rằng để đảm bảo điều kiện chăm sóc tốt cho con nên ông H rút một phần yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bà K giao cháu M cho ông nuôi dưỡng; còn cháu N, tiếp tục giao cho bà K nuôi dưỡng. Ngoài ra không yêu cầu gì khác.
Đối với hình ảnh thương tích của cháu M do bà K giao nộp thì ông H thừa nhận trước đây khi còn chung sống với bà K thì cháu M hay ngỗ nghịch, ông H dạy bảo nhưng cháu M không vâng lời nên ông H nóng giận dùng tay đánh cháu M, còn quyết định xử phạt hành chính đối với ông H là do khi ông H đến thăm con chung thì bà K gàn cản nên ông H có gây gổ lớn tiếng và đánh bà K nên bị xử phạt số tiền 750.000 đồng, số tiền này ông H đã nộp xong.
Bị đơn – bà Đặng Thị K trình bày: Bà K thống nhất nội dung ông H trình bày về thời gian ly hôn và việc giao con chung cho bà K nuôi dưỡng theo Quyết định số: 69/2019 ngày 10/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu. Tuy nhiên, ông H cho rằng bà K chăm sóc hai con chung không tốt, để xảy ra tai nạn giao thông và không đảm bảo về điều kiện sinh sống là không đúng. Bởi vì, sau khi ly hôn với ông H, để đảm bảo điều kiện học tập và điều kiện về chỗ ở nên bà K thuê nhà tường ở gần trường của hai cháu, để hai cháu thuận tiện cho việc học tập. Hơn nữa, ngày 12/9/2019 ông H là người trực tiếp chở cháu M đi mà không thông báo cho bà K biết, khi về nhà không thấy cháu M nên bà K đi tìm thì nhìn thấy cháu M đang ngồi trên xe mô tô cùng ông H. Khi nhìn thấy bà K, cháu M chạy qua đường không quan sát, do tính bất ngờ nên người điều khiển xe mô tô không kịp xử lý nên xảy ra va quẹt, bà K và ông H là người trực tiếp đưa cháu M đi khám và điều trị bệnh nhưng cháu M chỉ bị xây xát phần mềm, nghỉ ngơi vài ngày thì khỏe và sinh hoạt bình thường. Việc cháu M bị tai nạn là lỗi của ông H khi đưa cháu M đi không thông báo cho bà K biết, không quản lý và trông nom cẩn thận. Mặt khác, cháu M, cháu N đều là nữ nên về mặt tâm, sinh lý bà K chăm sóc và dạy bảo thuận lợi hơn. Hơn nữa, sau khi ly hôn bà K luôn tạo điều kiện cho ông H đến thăm nom con nhưng khi đến thăm nom ông H thường hay uống rượu, dùng lời lẽ xúc phạm và nhiều lần còn hâm dọa bà K và các con, làm cho bà K và các con bị ảnh hưởng về tinh thần nên ông H đã bị Công an xã Y xử phạt hành chính.
Xét thấy, về điều kiện kinh tế và vật chất thì bà K cho rằng tốt hơn ông H vì thu thập N tháng của bà K 10.000.000 đồng/01 tháng, còn ông H mới có việc làm; nhà ông H đang sống chỉ là nhà tạm, vách gỗ, nền đất, không đảm bảo sinh hoạt cho con. Do đó, bà K không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H.
Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, Kiểm sát viên không phát hiện vi phạm tố tụng. Nguyên đơn, bị đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 71, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn H đối với bà Đặng Thị K về việc “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn”.
Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc ông H phải chịu án phí theo qui định của pháp luật, bà K không phải chịu án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án do các bên cung cấp và qua kết quả thẩm tra các chứng cứ tại phiên tòa, xét thấy:
[1] Về tố tụng: Ông Phạm Văn H có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn đối với bà Đặng Thị K, do bà K có địa chỉ tại huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu theo qui định tại Điều 28, Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung: Theo Quyết định số: 69/2019 ngày 10/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu đã quyết định giao cho bà Đặng Thị K trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu Phạm Thị Bảo M, sinh ngày 08/4/2013 và Phạm Thị N, sinh ngày 05/7/2014 đến khi thành niên. Sau khi ly hôn, ông H cho rằng bà K chăm sóc, nuôi dưỡng con không đảm bảo nên ông H yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con. Bà K không chấp nhận yêu cầu của ông H. Bởi vì cháu M, cháu N là nữ nên về tâm, sinh lý bà K có điều kiện chăm sóc thuận lợi hơn; mặt khác ông H thường xuyên uống rượu và có hành vi bạo lực gia đình, về thu nhập và điều kiện sinh hoạt không đảm bảo.
Xét điều kiện nơi cư trú, điều kiện môi trường sống và thời gian chăm sóc con giữa ông H và bà K, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Tại biên bản xác minh ngày 11/5/2020 của Văn phòng ấp Long Phú, xã Long Khánh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh thể hiện: Ông Phạm Văn H và bà Đặng Thị K đều cư trú tại ấp X, xã Y, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Sau khi ly hôn, ông H vẫn ở tại căn nhà tạm (vách gỗ, nền đất) trên diện tích đất ruộng thuê của người khác; còn bà K thuê nhà tường ở gần trường mầm non và tiểu học tại ấp X1, xã Long Khánh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh nên thuận tiện cho việc học tập. Hiện tại, cả hai đều đi làm mướn tại địa phương vào hằng ngày; bà K là người trực tiếp chăm sóc cháu M, cháu N và đưa rước hai cháu đi học; ông H cũng thường xuyên đến thăm nom con chung, tuy nhiên hay uống rượu và kiếm chuyện gây gổ.
Quá trình giải quyết, ông H thừa nhận thu thập trước đây 6.000.000 đồng/ 01 tháng còn hiện nay là 9.000.000 đồng/ 01 tháng, còn bà K thu nhập bao nhiêu thì ông H không biết nhưng thấy bà K vẫn chăm sóc cho cháu M, cháu N đảm bảo về điều kiện vật chất, bảo đảm việc học tập và cũng tạo điều kiện cho ông H đến thăm nom con chung. Bà K trình bày thu nhập hàng ngày và bán hàng online vào khoảng 10.000.000 đồng/tháng, ổn định nên đủ điều kiện để chăm sóc và học tập cho cháu M, cháu N. Như vậy, xét thấy về điều kiện thu nhập, điều kiện môi trường sống và việc chăm sóc cháu M và cháu N thì bà K đủ điều kiện chăm sóc tốt, đảm bảo đầy đủ các điều kiện vật chất, không cản trở cản ông H đến thăm nom, chăm sóc con chung.
Tại biên bản xác minh ngày 08/5/2020 của Công an xã Y, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh thể hiện: Lúc 21 giờ, ngày 18/9/2019, ông H đến thăm con nhưng có xảy ra gây gổ với bà K và đánh bà K nên bị xử phạt hành chính với số tiền 750.000 đồng. Mặt khác, ông H thừa nhận khi còn chung sống với bà K, do cháu M không nghe dạy bảo nên ông H dùng tay đánh cháu M như các ảnh thương tích của cháu M mà bà K cung cấp là đúng. Như vậy có thể thấy, hành vi đánh đập của ông H là hành vi vi phạm theo qui định tại khoản 1 Điều 69 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và điểm a khoản 1 Điều 2 Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007. Bởi trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương và không thể tự bảo vệ mình. Xét nguyện vọng của cháu Phạm Thị Bảo M: Tại biên bản lấy lời khai ngày 05/5/2020 thể hiện: “Từ ngày cha mẹ ly hôn, mẹ là người trực tiếp chăm sóc và đưa rước các cháu đi học”. “Cháu có nguyện vọng tiếp tục sống chung với mẹ. Cha cũng thường xuyên đến thăm nhưng hay uống rượu, làm cháu sợ”.
Từ các phân tích nêu trên, xét thấy bà K vẫn chăm sóc tốt, đảm bảo quyền học tập, điều kiện về vật chất cho cháu M, cháu N. Mặt khác, hai cháu là nữ nên người mẹ hướng dẫn và giáo dục giới tính trong quá trình phát triển sinh lý thuận lợi hơn nên cần tiếp tục giao cháu M, cháu N cho bà K trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với qui định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; phù hợp với nguyện vọng của cháu M. Do đó, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H đối với bà K về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn là có căn cứ.
[3] Trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa, ông H rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu bà K giao cháu N cho ông H nuôi dưỡng nên đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông H.
[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H là có cơ sở và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Về án phí: Do yêu cầu của ông H không được chấp nhận nên ông H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật. Bà K không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 69, 71, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn H. Tiếp tục giao con chung là Phạm Thị Bảo M, sinh ngày 08/4/2013 và Phạm Thị N, sinh ngày 05/7/2014 cho bà Đặng Thị K là người trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Ông Phạm Văn H có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
2. Về án phí: Ông Phạm Văn H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, cho khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số: 0014055 ngày 03/01/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Bà Đặng Thị K không phải chịu án phí.
3. Về quyền kháng cáo bản án: Ông Phạm Văn H và bà Đặng Thị K có quyền kháng cáo theo trình tự thủ tục phúc thẩm lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 24/2020/HNGĐ-ST ngày 03/07/2020 về tranh chấp thay đổi người nuôi con
Số hiệu: | 24/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 03/07/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về