Bản án 24/2019/HS-ST ngày 04/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 24/2019/HS-ST NGÀY 04/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Phương T; Sinh ngày: 01/01/1989; Tại: Tỉnh Vĩnh Long; Thường trú: Ấp PC, xã HT, huyện VL, tỉnh Vĩnh Long; Chỗ ở: LP2-31.06, chung cư LP - Số 50 đường PVK, Phường B, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn D và bà: Huỳnh Thị V; Có chồng: Không và con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam ngày 28/6/2018 (bị tạm giam trước từ ngày 29/5/2018 đến ngày 31/5/2018 được trả tự do). (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Phạm Văn C; Sinh năm: 1968; Thường trú: 246/49/5 đường 26/3, khu phố 11, phường BHH, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

2. Ông Trần Võ H; Sinh năm: 1969; Thường trú: 134 đường CVL, Phường K, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: R4-93 HG 3, PMH, phường TP, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 29/5/2018, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 6 kết hợp với Công an Phường 2, Quận 6 và Ban quản lý chung cư LP kiểm tra hành chính căn hộ LP2.31.06 của chung cư tại địa chỉ số 50 đường PVK, Phường B, Quận F do Nguyễn Thị Phương T và Nguyễn Hoàng Nam A thuê ở cách ngày bị bắt khoảng một tuần (tại thời điểm kiểm tra chỉ có một mình Nguyễn Thị Phương T ở nhà) và đã thu giữ trong bóp cầm tay của T (loại bóp có dây đeo, bên ngoài có chữ LV) 01 cây son hình chữ nhật màu đỏ, bên trong cây son có 02 gói nylon chứa chất bột màu trắng và 06 viên nén màu cam. Ngoài ra, Công an còn thu giữ trong ngăn kéo thứ nhất của tủ nhỏ để ngay sát đầu giường trong phòng ngủ của T 01 cái bóp cầm tay màu nâu (loại bóp hai bên gấp lại không có dây kéo) 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng, thu giữ trong ngăn kéo thứ hai 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng đục, thu giữ trong vali để cạnh giường ngủ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (bình nhựa, ống hút, ống thủy tinh).

Tiến hành khám xét phòng ngủ của Nguyễn Hoàng Nam A (kế bên phòng ngủ của T), Công an đã thu giữ 01 gói nylon bên trong có 18 viên nén màu hồng ký hiệu AP, 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng, 01 gói nylon chứa chất bột màu xanh (cả 03 gói nylon này đựng trong túi sọc caro màu đỏ để ngay sát kệ ti vi), 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể rắn không màu (để trong ba lô treo bên ngoài tủ quần áo), 05 cây bàn chải đánh răng, 01 cây dao cạo râu, 01 cây đèn camera và thẻ nhớ, 01 màn hình máy vi tính, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (01 bình thủy tinh, 01 ống hút, 01 ống thủy tinh, 01 bình gas).

Tại Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Nguyễn Thị Phương T khai: Số ma túy mà Công an thu giữ gồm 06 viên nén hình tròn màu cam (dạng thuốc lắc) và 03 gói nylon chứa chất bột màu trắng (ma túy khay) là của T cất giữ để dành sử dụng (trong đó, có 04 viên nén là T mua của Nam A với giá 200.000 đồng/viên, 02 viên nén còn lại là của Nam A cho, 03 gói ma túy khay là của bạn bè ngoài xã hội cho). Riêng 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng đục thu giữ trong ngăn kéo thứ hai là của ai T không biết.

Tại Kết luận giám định số: 956/KLGĐ-H ngày 06 tháng 6 năm 2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận:

- Gói 1: Được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Nguyễn Văn G, Trần Võ H, Nguyễn Trí T (người chứng kiến), Nguyễn Thị Phương T và hình dấu Công an Phường 2, Quận 6 gửi đến giám định, bên trong có:

+ 06 viên nén hình tròn màu cam là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,0552g (một phẩy không năm năm hai gam), loại 7-Bromo-5-(2-clophenyl)-1,3- dihydro-2H-1,4-benzodiazepine-2-one (tên gọi khác: 7-Bromo-5-(2- chlorophenyl) -2,3-dihydro-1H-1,4-benzodiazepine-2-one, số CAS: 51753-57-2).

+ Bột màu trắng trong 03 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2885g (không phẩy hai tám tám năm gam), loại Ketamine.

+ Tinh thể không màu trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3174g (không phẩy ba một bảy bốn gam), loại Methamphetamine.

- Gói 2: Được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Nguyễn Văn G, Trần Võ H, Nguyễn Trí T (người chứng kiến), Nguyễn Thị Phương T và hình dấu Công an Phường 2, Quận 6 gửi đến giám định, bên trong có:

+ 18 viên nén hình tròn màu hồng trong 01 gói nylon, có khối lượng 7,8834g (bảy phẩy tám tám ba bốn gam), không tìm thấy ma túy.

+ Tinh thể không màu trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 22,8039g (hai hai phẩy tám không ba chín gam), loại Methamphetamine.

+ Bột màu xanh trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6066g (không phẩy sáu không sáu sáu gam), loại MDMA.

+ Bột màu trắng trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0470g (không phẩy không bốn bảy không gam), loại Ketamine.

Cơ quan điều tra Công an Quận 6 đã xác định được Nguyễn Hoàng Nam A, sinh năm 1989, thường trú tại 08 đường HĐV, tổ 16, khu phố 2, phường TB, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai, nhưng đã bỏ địa phương đi đâu không rõ. Ngày 23/10/2018, Cơ quan điều tra đã ra Thông báo truy tìm số: 78/CV-CQĐT-MT và khi nào bắt được Hoàng Nguyễn Hoàng Nam A làm rõ giải quyết sau.

Tại Cáo trạng số: 29/CT-VKS-Q6 ngày 05 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Phương T về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c, điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Bị cáo Nguyễn Thị Phương T khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi cất giữ 06 viên nén (dạng thuốc lắc) và 03 bịch ma túy khay để dành sử dụng và bị Công an phát hiện bắt quả tang như bản cáo trạng nêu. Ngoài ra, bị cáo khai bắt đầu sử dụng ma túy tổng hợp (loại ma túy đá) từ đầu năm 2018. Về nguồn gốc ma túy đá là của bạn bè ngoài xã hội và của Nam A cho bị cáo. Riêng 01 gói ma túy đá mà Công an thu giữ trong ngăn kéo thứ hai của tủ nhỏ để ngay sát đầu giường trong phòng ngủ của bị cáo là của ai và để trong ngăn tủ đó từ lúc nào bị cáo hoàn toàn không biết;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Trần Võ H xác nhận chính ông là người cho bị cáo Nguyễn Thị Phương T thuê căn hộ LP2-31.06, chung cư Lucky Palace - Số 50 đường PVK, Phường B, Quận F cách ngày bị bắt khoảng 01 tuần (có ký hợp đồng thuê nhà). Khi bị cáo đến ở, ông đã bàn giao và yêu cầu bị cáo kiểm tra các vật dụng, tài sản có sẵn trong căn hộ cũng như trong phòng riêng của bị cáo. Việc bị cáo cất giữ ma túy trong 02 ngăn tủ nhỏ để trong phòng ngủ của bị cáo như thế nào ông hoàn toàn không biết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thị Phương T như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Nguyễn Thị Phương T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội « Tàng trữ trái phép chất ma túy » theo điểm c, điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi gói 1, vụ số: 956/18/Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương; 01 cái bóp cầm tay có dây đeo, bên ngoài có chữ LV; 01 cái bóp cầm tay hình chữ nhật; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá (bình nhựa, ống hút, ống thủy tinh), 01 cây son hình chữ nhật màu đỏ.

Trả lại bị cáo Nguyễn Thị Phương T 01 chiếc xe gắn máy biển số 59V1- 391.71, số khung Y-287300, số máy JF27E-1092868 (loại xe hai bánh từ 50- 175cm3, nhãn hiệu Honda, số loại Air Blade, sơn màu Trắng Đỏ Đen, dung tích 108); 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 8800, số Imei: 354935/1 (có sim điện thoại số seri: 8401171050395082, code: 0522764); 01 chiếc điện thoại di động màu vàng phía sau có ghi chữ Iphone (bị nứt và bung màn hình) số Imei: 354442064089218 (có sim điện thoại số seri: 8401161051768957 OT).

Còn 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi gói 2, vụ số: 956/18/Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, 01 màn hình máy vi tính, 01 cây đèn camera và thẻ nhớ, 01 cây dao cạo râu, 05 cây bàn chải đánh răng, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm: 01 bình nhựa, 01 ống hút, 01 bình gas), do có liên quan đến Nguyễn Hoàng Nam A nên cần giao cho Công an Quận 6 giữ để điều tra và xử lý sau khi bắt được Nguyễn Hoàng Nam A.

Lời nói sau cùng, bị cáo Nguyễn Thị Phương T nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Nguyễn Thị Phương T tại phiên tòa với lời khai của ông Trần Võ H; với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản tạm giữ tang vật, Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thị Phương T đã phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo Nguyễn Thị Phương T đã cất giữ 1,3437 gam các chất ma túy khác ở thể rắn (bao gồm: 1,0552 gam loại 7-Bromo-5-(2-clophenyl)-1,3-dihydro-2H- 1,4-benzodiazepine-2-one và 0,2885 gam loại Ketamine) để sử dụng, là phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» thuộc trường hợp quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Còn 0,3174 gam ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine) mặc dù tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Phương T không thừa nhận là của bị cáo. Nhưng xét số ma túy này được thu giữ trong ngăn kéo thứ hai của tủ nhỏ để ngay sát đầu giường trong phòng của bị cáo (trong ngăn kéo thứ nhất, Công an thu giữ 0,2885 gam ma túy ở thể rắn loại Ketamine bị cáo khai là của bị cáo). Mặt khác, căn phòng này bị cáo khai là phòng riêng của bị cáo, do bị cáo trực tiếp quản lý, sử dụng, ngoài bị cáo ra không có ai ở trong căn phòng đó (bị cáo có chìa khóa phòng riêng). Khi đến ở, bị cáo được ông Trần Võ H (chủ nhà) bàn giao căn hộ cùng các vật dụng, tài sản có sẵn trong căn hộ cũng như tủ nhỏ có hai ngăn trên (bị cáo khai lúc đến có kéo 02 ngăn tủ ra kiểm tra và thấy 02 ngăn tủ trống). Cho nên, việc bị cáo cho rằng bịch ma túy được thu giữ trong ngăn kéo thứ hai của tủ nhỏ để ngay sát đầu giường trong phòng của bị cáo là của ai, để trong ngăn tủ đó từ lúc nào bị cáo không biết, là không có cơ sở. Hơn nữa, tại Biên bản ghi lời khai ngày 30/5/2018 của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, chính bị cáo thừa nhận «... bịch ma túy đá Công an thu giữ trong ngăn kéo thứ hai của tủ nhỏ là của Nguyễn Hoàng Nam A cho bị cáo sử dụng...», lời khai này của bị cáo phù hợp với bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá được thu giữ trong phòng của bị cáo, phù hợp với kết quả test ma túy và văn bản giải thích về việc test ma túy của Bệnh viện Quận 6 là bị cáo dương tính với Amphetamine (...khi vào cơ thể, Methamphetamine phân hủy thành Amphetamine, cho nên kết quả dương tính với Amphetamine là phù hợp...). Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận 0,3174 gam ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine) là của bị cáo. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Thị Phương T về tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy» thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Phương T không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy m à còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Nguyễn Thị Phương T là người có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị Phương T là nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và các chất ma túy ở thể rắn (Methamphetamine, Ketamine, 7-Bromo-5- (2-clophenyl)-1,3-dihydro-2H-1,4- benzodiazepine-2-one) nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung.

[4] Và xét bị cáo Nguyễn Thị Phương T tại phiên tòa không thành khẩn khai báo, không thể hiện sự ăn năn hối cải, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì bị cáo Nguyễn Thị Phương T còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội không vụ lợi, là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Việc xử lý vật chứng: 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi gói 1, vụ số: 956/18/Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương; 01 cái bóp cầm tay có dây đeo, bên ngoài có chữ LV; 01 cái bóp cầm tay hình chữ nhật; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá (bình nhựa, ống hút, ống thủy tinh), 01 cây son hình chữ nhật màu đỏ, là vật cấm lưu hành, vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với chiếc xe gắn máy biển số 59V1-391.71 thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị Phương T, theo Kết luận giám định số: 6246/KLGĐ-X(Đ6) ngày 26/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh và Phiếu trả lời xác minh ngày 10/8/2018 của Công an quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh thì chiếc xe này có số khung Y-287300, số máy JF27E-1092868 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu Honda, số loại Air Blade, sơn màu Trắng Đỏ Đen, dung tích 108), do ông Phạm Văn C, sinh năm 1968, thường trú 246/49/5 đường 26/3, khu phố 11, phường BHH, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên chủ xe. Tuy nhiên, qua xác minh tại Công an phường Bình Hưng Hòa, quận Bình Tân được biết ông Cường đã bán nhà đi khỏi địa phương, hiện ở đâu không rõ, nên Cơ quan điều tra không tiến hành ghi lời khai được. Ngày 13/8/2018, Cơ quan điều tra Công an Quận 6 đã đề nghị thông báo tìm chủ sở hữu của chiếc xe gắn máy biển số 59V1-391.71 trên Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng đến nay vẫn không có ai đến nhận. Còn bị cáo Nguyễn Thị Phương T khai chiếc xe này là của bạn trai của bị cáo tên Lê Mạnh Tiến mua cho bị cáo sử dụng từ năm 2014 đến ngày bị bắt (có Giấy chứng nhận đăng ký xe đứng tên Phạm Văn C). Xét thấy chiếc xe gắn máy biển số 59V1-391.71 có giấy tờ, nguồn gốc hợp pháp, nên mặc dù bị cáo chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, nhưng Hội đồng xét xử thấy đã có đủ cơ sở xác định bị cáo là người quản lý hợp pháp của chiếc xe (hơn nữa chiếc xe được thu giữ tại bãi xe của chung cư LP và bị cáo không sử dụng làm phương tiện phạm tội), nên trả chiếc xe lại cho bị cáo cùng với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 8800, số Imei: 354935/1 (có sim điện thoại số seri: 8401171050395082, code: 0522764); 01 chiếc điện thoại di động màu vàng phía sau có ghi chữ Iphone (bị nứt và bung màn hình) số Imei: 354442064089218 (có sim điện thoại số seri: 8401161051768957 OT), vì không đủ căn cứ xác định bị cáo đã hoặc sẽ dùng 02 chiếc điện thoại này vào việc phạm tội theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Riêng 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi gói 2, vụ số: 956/18/Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, 01 màn hình máy vi tính, 01 cây đèn camera và thẻ nhớ, 01 cây dao cạo râu, 05 cây bàn chải đánh răng, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm: 01 bình nhựa, 01 ống hút, 01 bình gas) , do xét thấy có liên quan đến việc điều tra làm rõ hành vi của Nguyễn Hoàng Nam A mà Nguyễn Hoàng Nam A hiện đã bỏ trốn, nên Hội đồng xét xử giao lại cho Công an Quận 6 giữ để điều tra và xử lý sau. (theo hai Phiếu nhập kho vật chứng số: 126/PNK và số: 146/PNK cùng ngày 18 tháng 02 năm 2019 của Công an Quận 6 - BL200, 202) [7] Đối với Nguyễn Hoàng Nam A, hiện đã bỏ trốn và tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị lúc nào Cơ quan điều tra bắt được làm rõ giải quyết sau, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Bị cáo Nguyễn Thị Phương T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Phương T phạm tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm c, điểm g khoản 1 Điều 249 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Phương T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/6/2018, được trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giam trước từ ngày 29/5/2018 đến ngày 31/5/2018.

- Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi gói 1, vụ số: 956/18/Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương; 01 (một) cái bóp cầm tay có dây đeo, bên ngoài có chữ LV; 01 (một) cái bóp cầm tay hình chữ nhật; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá (bình nhựa, ống hút, ống thủy tinh), 01 (một) cây son hình chữ nhật màu đỏ.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại bị cáo Nguyễn Thị Phương T 01 (một) chiếc xe gắn máy biển số 59V1-391.71, số khung Y-287300, số máy JF27E-1092868 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu Honda, số loại Air Blade, sơn màu Trắng Đỏ Đen, dung tích 108); 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 8800, số Imei: 354935/1 (có sim điện thoại số seri: 8401171050395082, code: 0522764); 01 (một) chiếc điện thoại di động màu vàng phía sau có ghi chữ Iphone (bị nứt và bung màn hình) số Imei: 354442064089218 (có sim điện thoại số seri: 8401161051768957 OT).

Giao 01 (một) gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi gói 2, vụ số: 956/18/Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương; 01 (một) màn hình máy vi tính; 01 (một) cây đèn camera và thẻ nhớ; 01 (một) cây dao cạo râu; 05 (năm) cây bàn chải đánh răng; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm: 01 (một) bình nhựa, 01 (một) ống hút, 01 (một) bình gas cho Công an Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh giữ để điều tra và xử lý sau, do xét thấy có liên quan đến việc điều tra làm rõ hành vi của Nguyễn Hoàng Nam A.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Thị Phương T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Nguyễn Thị Phương T; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Trần Võ H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

319
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 24/2019/HS-ST ngày 04/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:24/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;