Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 16/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 24/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP VỀ NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 16 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 137/2019/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2019/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Cẩm V; sinh năm 1979

- Bị đơn: Anh Dương Ngọc K, sinh năm 1978

Cùng địa chỉ: Số nhà 11, ngõ 56, đường P, phố P, phường P, thành phố N, tỉnh Ninh Bình.

(Chị Vân, anh Khánh vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện và bản tự khai nguyên đơn chị Nguyễn Thị Cẩm V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Dương Ngọc K kết hôn với nhau trên cơ sở hôn nhân tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 15/01/2004 tại UBND phường Nam Bình, thành phố N. Sau khi kết hôn anh chị chung sống khoảng 02 tháng hạnh phúc thì phát sinh mâu thuẫn cho đến nay. Vợ chồng thường xuyên cãi vã, xô xát. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, không tin tưởng lẫn nhau. Năm 2009, 2010 chị đã làm đơn ly hôn gửi Tòa án nhân dân thành phố N song vì con nên vợ chồng đoàn tụ. Mặc dù chị đã tạo điều kiện để vợ chồng hàn gắn tình cảm nhưng anh K vẫn không thay đổi. Tình cảm vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn. Ngày 24/4/2019, anh K bạo hành chị khiến chị phải nhập viện điều trị. Đến nay, chị và anh K không còn quan tâm đến nhau, chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống được với nhau, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh K.

Về con chung: Chị và anh K có 02 con chung là cháu Dương Hoàng D sinh ngày 17/11/2004 và cháu Dương Trang N sinh ngày 11/12/2011. Hiện nay hai cháu đều ở cùng chị, anh K không quan tâm gì đến các con, không đóng góp chi phí sinh hoạt gia đình, tiền ăn học của các con. Chị xác định bản thân đủ điều kiện để chăm sóc, giáo dục hai cháu. Thu nhập bình quân hàng tháng của chị khoảng 15.000.000 đồng/tháng. Trường hợp ly hôn, chị đề nghị trực tiếp nuôi dưỡng cháu D và cháu N. Chị không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ chung: Chị V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị V vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Đối với bị đơn anh Dương Ngọc K: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã ra thông báo và gửi thông báo thụ lý vụ án cho anh K theo quy tại điều 196 Bộ luật Tố tụng dân sự; Mặc dù đã biết việc Tòa án nhân dân thành phố N đã thụ lý giải quyết vụ án về việc chị Nguyễn Thị Cẩm V xin ly hôn với anh, nhưng anh K vẫn không gửi văn bản trả lời thông báo thụ lý vụ án đến Tòa án và cũng không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N có quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng trình tự pháp luật; Nguyên đơn thực hiện đúng các quy định; Bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật không đến tham gia phiên tòa mặc dù đã được triệu tập hợp lệ.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 5, 147, 227, 228, 266, 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Cẩm V và anh Dương Ngọc K.

Về con chung: Giao cháu Dương Hoàng D sinh ngày 17/11/2004 và cháu Dương Trang N sinh ngày 11/12/2011 cho chị Nguyễn Thị Cẩm V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu D và cháu N đủ 18 tuổi. Anh K không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về án phí chị Vân nộp toàn bộ án phí ly hôn theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về áp dụng pháp luật tố tụng:

- Quan hệ pháp luật và thẩm quyền quyền giải quyết vụ án: Đây là quan hệ tranh chấp về ly hôn; anh Dương Ngọc K cư trú tại phố P, phường P, thành phố N; Tòa án nhân dân thành phố N thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về sự vắng mặt của đương sự: Chị V có đơn xin xét xử vắng mặt, anh K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228 BLTTDS.

[2].Về áp dụng pháp luật nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Cẩm V và anh Dương Ngọc K đăng ký kết hôn ngày 15/01/2004 tại UBND phường N, thành phố N. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

- Về yêu cầu khởi kiện: Sau khi kết hôn anh chị chung sống khoảng 02 tháng hạnh phúc thì phát sinh mâu thuẫn cho đến nay. Vợ chồng thường xuyên cãi vã, xô xát. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, không tin tưởng lẫn nhau. Năm 2009, 2010 chị V đã làm đơn ly hôn gửi Tòa án nhân dân thành phố N song vì con nên vợ chồng đoàn tụ. Ngày 24/4/2019, anh K bạo hành chị khiến chị phải nhập viện điều trị. Quá trình xác minh thu thập chứng cứ tại địa phương thể hiện quá trình vợ chồng anh K, chị V chung sống có xảy ra mâu thuẫn, cãi cọ, xô xát. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp. Quá trình giải quyết vụ án anh K cố tình không hợp tác, không thể hiện quan điểm gì về việc chị V xin ly hôn. Như vậy, có thể khẳng định: Tình cảm vợ chồng và đời sống chung giữa chị V và anh K không còn, quan hệ hôn nhân chỉ là hình thức, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị V là phù hợp với thực trạng diễn biến quan hệ hôn nhân giữa chị V với anh K và phù hợp với pháp luật được quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Chị V, anh Khánh có 02 con chung là cháu Dương Hoàng D sinh ngày 17/11/2004 và cháu Dương Trang N sinh ngày 11/12/2011. Hiện nay hai cháu đều ở cùng chị V. Chị V đề nghị trực tiếp nuôi cháu D và cháu N. Đồng thời cháu D, cháu N có nguyện vọng ở với chị V. Xét thấy chị V có đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu D và cháu N, căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao cho chị V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Dương Hoàng D và cháu Dương Trang N đến khi hai cháu đủ 18 tuổi. Anh Dương Ngọc K không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản, công nợ chung: Chị V không yêu cầu, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[3].Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Cẩm V chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 24 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

X:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Cẩm V và anh Dương Ngọc K (Quan hệ hôn nhân giữa chị V và anh K chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật).

2. Về con chung: Giao cho chị V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Dương Hoàng D sinh ngày 17/11/2004 và cháu Dương Trang N sinh ngày 11/12/2011 đến khi hai cháu đủ 18 tuổi. Anh K không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị V trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh K trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Anh K không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị V có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh K.

Khi cần các bên có quyền thay đổi việc nuôi con chung.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: không có.

4. Án phí ly hôn sơ thẩm chị Nguyễn Thị Cẩm V chịu án là 300.000đ. Được trừ vào số tiền tiền tạm ứng án phí chị V đã nộp 300.000đ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0001132 ngày 23/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N.

5. Quyền kháng cáo: chị V, anh K được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 16/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:24/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;