Bản án 24/2018/HNGĐ-ST ngày 17/08/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN

 BẢN ÁN 24/2018/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON  

Ngày 17 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 162/2018/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2018 về việc: “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2018; giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị Bích T, sinh năm; 1993 

Địa chỉ: thôn 01, xã T, huyện P, tỉnh Bình Thuận.

Bị đơn: Ông Ung Hòa T, sinh năm 1985; 

Địa chỉ: thôn 01, xã T, huyện P, tỉnh Bình Thuận.

Tại phiên tòa có mặt nguyên đơn, bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá T xét xử, nguyên đơn bà Lê Thị Bích T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân, bà và ông Ung Hòa T tự nguyện sống chung với nhau và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện P vào năm 2014. Hai bên gia đình có tổ chức lễ cưới hỏi cho vợ chồng ông bà. Sau khi xác lập quan hệ vợ chồng bà về sống ở nhà cha mẹ chồng được hai năm thì trở về gia đình bà sống. Cuộc sống vợ chồng bà vẫn hạnh phúc cho đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông T không lo làm ăn, suốt ngày chỉ lo ăn nhậu và tụ tập bạn bè mà không quan tâm, không có trách nhiệm với vợ con. Bà đã nhiều lần khuyên can ông T nhưng ông T không thay đổi. Từ đó vợ chồng bà thường xuyên cải vả, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Tháng 4 năm 2018 ông T trở về gia đình sống, bà và ông T sống ly thân cho đến nay.

Hiện nay bà xét thấy tình cảm vợ chồng đã không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng không thể hàn gắn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: bà và ông Ung Hòa T có 01 con chung tên Ung Hoài Bảo N – sinh ngày 28/3/2014. Hiện nay cháu đang ở với bà. Nguyện vọng của bà là được tiếp tục nuôi dưỡng và giáo dục con chung cho đến khi trưởng thành, bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ chung: Không có.

Theo bị đơn ông Ung Hòa T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân, ông và bà Lê Thị Bích T tự nguyện sống chung với nhau và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện P vào năm 2014. Hai bên gia đình có tổ chức lễ cưới hỏi cho vợ chồng ông bà. Sau khi xác lập quan hệ vợ chồng về sống tại gia đình ông được hai năm thì vợ chồng ông trở về gia đình bà T sinh sống. Cuộc sống vợ chồng ông vẫn hạnh phúc cho đến tháng 02 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vấn đề tiền bạc không rõ ràng giữa hai vợ chồng. Mâu thuẫn vợ chồng ông không có gì nhưng do bà T là người hay để ý nên vợ chồng cải vả thường xuyên.

Hiện nay ông vẫn còn thương yêu vợ con, mâu thuẫn của vợ chồng chỉ là nhỏ nhặt, không phải là vấn đề lớn để ly hôn nên ông không đồng ý ly hôn với bà T.

Về con chung: ông và bà T có 01 con chung tên Ung Hoài Bảo N – sinh ngày 28/3/2014. Hiện nay cháu đang ở với bà T. Tại Tòa ông T yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung và không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong phát biểu ý kiến về việc kiểm sát tuân theo pháp luật: các bước của quá trình chuẩn bị xét xử, việc thu thập chứng cứ và trình tự thủ tục tại phiên tòa của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu được ly hôn của bà Lê Thị Bích T và ông Ung Hòa T, đề nghị Hội đồng xét xử giao Ung Hoài Bảo N cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu trưởng thành.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: ông Ung Hòa T có nơi cư trú tại thôn 01, xã T, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện ly hôn của bà Lê Thị Bích T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 3 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu ly hôn của bà Lê Thị Bích T, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hôn nhân giữa bà và ông Ung Hòa T được xác lập là hợp pháp, trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện P, tỉnh T. Quá trình chung sống do ông T không lo làm ăn, suốt ngày chỉ lo ăn nhậu và tụ tập bạn bè mà không quan tâm, không có trách nhiệm với vợ con. Bà đã nhiều lần khuyên can ông T nhưng ông T không thay đổi. Từ đó vợ chồng bà thường xuyên cải vả, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Từ năm 2017 đến nay đời sống hôn nhân giữa bà và ông T không hạnh phúc. Xét thấy tình cảm vợ chồng của bà T và ông T không còn nữa, mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T đối với ông T.

[3] Về con chung: bà T và ông T có 01 con chung tên Ung Hoài Bảo N – sinh ngày 28/3/2014. Hiện nay cháu đang ở với bà T. Nguyện vọng của bà được nhận nuôi con và không yêu cầu ông T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Ông T yêu cầu được quyền nuôi con nhưng xét thấy điều kiện nuôi dưỡng con chung thì bà T có điều kiện nuôi dưỡng con chung tốt hơn. Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu của bà T là chính đáng nên chấp nhận theo yêu cầu của bà.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T và ông T đều khai nhận không có, nên không xem xét giải quyết quan hệ này.

[5] Về án phí: Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí về lệ phí Tòa án thì bà T là người có yêu cầu ly hôn nên phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc giải quyết ly hôn.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Áp dụng: Khoản 01 Điều 28; điểm a khoản 01 Điều 35; điểm a khoản 01 Điều 39, Điều 146 và khoản 4 Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.

Điều 51; Điều 56; khoản 1, khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí về lệ phí Tòa án.

2/ Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê Thi Bích T đối với ông Ung Hòa T, Bà T được ly hôn với ông T.

3/ Về con chung: Giao cho bà T được tiếp tục, trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Ung Hoài Bảo N – sinh ngày 28/3/2014 cho đến khi thành niên có khả năng lao động và có tài sản để tự nuôi bản thân, bà T không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Bà T không được cản trở ông T quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung.

4/ Về án phí: Bà Lê Thị Bích T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc giải quyết ly hôn. Bà T đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại biên lai thu số 0019122 ngày 05/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy Phong, bà T đã nộp đủ án phí.

5/ Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên, bị đơn, báo cho họ biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (17/8/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 24/2018/HNGĐ-ST ngày 17/08/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:24/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;