TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 24/2018/DS-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 28 tháng 11năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 12/2018/TLST-DS ngày 11/9/2018 về “Tranh Chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2018/QĐXX-ST ngày 19/10/2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Đ
Địa chỉ: 130 Phan Đăng L, phường 3, quận P, Thành phố H
Người đại diện theo pháp luật: Ông Võ Minh T – Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh T – Tổng Giám đốc (Quyết định ủy quyền số 122/QĐ - DAB - HĐQT ngày 27/4/2016)
Người đại diện theo ủy quyền thứ 2: Ông Trần Văn G – Giám đốc Chi nhánh Thái Bình – phòng giao dịch Đ.
(Quyết định ủy quyền số 636/QĐ - DAB - PC ngày 22/5/2018)
Người đại diện được ủy quyền lại: Bà Vũ Thị Y Chức vụ: Cán bộ xử lý nợ Ngân hàng TMCP Đ chi nhánh Thái Bình, Phòng giao dịch Đ.
(Quyết định ủy quyền số 08/QĐ - DAB – DHG1 ngày 05/9/2018)
- Bị đơn: Bà Phạm Thị T, sinh năm 1958
Địa chỉ: Thôn X, xã Đ, huyện Đ, tỉnh T.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Thọ Ấ, sinh năm 1957.
Địa chỉ: Thôn X, xã Đ huyện Đ, tỉnh T.
(Tại phiên tòa có mặt bà Y vắng mặt bà T, ông Ấ)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Đại diện nguyên đơn trình bày: Theo giấy đề nghị vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ của bà Phạm Thị T, ngày 17/6/2016 Ngân hàng thương mại cổ phần Đô, chi nhánh Thái Bình, Phòng giao dịch Đ đã duyệt cho bà Phạm Thị T vay số tiền 20.000.000đồng, lãi suất 9%/năm, thời hạn vay 12 tháng, chia làm 12 kỳ, mỗi kỳ là 1 tháng kể từ ngày 17/6/2016 đến ngày 17/6/2017, mục đích vay chăn nuôi, hình thức thanh toán: trả cả gốc và lãi hàng tháng theo quy định của Ngân hàng Đ (theo bảng dự tính thu RULE 78); hình thức bảo đảm khoản vay: tín chấp thông qua xác nhận của Chủ tịch Hội phụ nữ và Chủ tịch UBND xã Đ. Ngày 17/6/2016 Ngân hàng thương mại cổ phần Đ đã thực hiện cho bà T nhận nợ theo hình thức báo có vào tài khoản số 150647232 của bà Phạm Thị T mở tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đ số tiền 20.000.000đồng. Quá trình vay, từ ngày 17/6/2016 đến ngày 27/3/2017, bà Phạm Thị T đã trả được tổng số tiền gồm: Gốc: 12.990.770đồng; lãi trong hạn: 1.569.230đồng. Do bà Phạm Thị T vi phạm nghĩa vụ trả nợ, nên từ ngày 18/6/2017, Ngân hàng đã chuyển toàn bộ số nợ vay còn thiếu sang nợ quá hạn. Tính đến ngày 20/8/2018, bà T còn nợ ngân hàng thương mại cổ phần Đ số tiền gốc là: 7.009.230; lãi trong hạn: 230.770 đồng; lãi quá hạn: 1.175.286đồng.
Nay Ngân hàng đề nghị Tòa án buộc bà Phạm Thị T phải trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc và tiền lãi tính đến ngày 20/8/2018 là 8.415.286đồng, lãi phát sinh từ ngày 21/8/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm (28/11/2018) là 257.589đồng.
Bà Phạm Thị T là bị đơn trình bày: Bà có vay của ngân hàng thương mại cổ phần Đ số tiền gốc là 20.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng, lãi suất 9%/năm, mục đích vay để chăn nuôi, bà đã trả được tính đến ngày 27/3/2017 số tiền là: 14.560.000đồng, tính đến ngày 20/8/2018 bà còn nợ Ngân hàng Đ số tiền 8.415.286đồng trong đó tiền gốc 7.009.230đồng; lãi trong hạn: 230.770đồng; lãi quá hạn: 1.175.286đồng. Trong giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 25/5/2016, phần người vay có ký tên “T – Phạm Thị T” đúng là chữ ký của bà. Chữ ký trong danh sách cho vay tiền trả góp giải ngân qua tài khoản thẻ ngày 17/6/2016 và trong bảng dự tính thu theo Rule78 đúng là chữ ký của bà. Chữ ký tại phần người bảo lãnh trong giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ, chữ ký “Ấ – Nguyễn Thọ Ấ” không phải là chữ ký của ông Nguyễn Thọ Ấ chồng bà, còn ai ký thì bà không biết, bà không đề nghị giám định chữ ký của ông Ấ. Ngân hàng Đô yêu cầu bà phải trả số tiền nợ tính đến ngày 20/8/2018 là 8.415.286đồng gồm cả gốc và lãi và tiền lãi phát sinh tính từ ngày 21/8/2018 đến ngày thực trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ, bà không đồng ý trả tiền cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ vì bà vay hộ tiền cho anh Đỗ Đại Q – giám đốc xưởng may ở xã Đ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Thọ Ấ trình bày: Tại phần người bảo lãnh trong giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 25/5/2016, chữ ký: “ Ấ – Nguyễn Thọ Ấ” không phải là chữ ký của ông, ông cũng không biết ai ký, ông không đề nghị giám định chữ ký. Ông không phải là người vay mà do bà Phạm Thị T vay tiền của Ngân hàng Đ hộ anh Đỗ Đại Q, ở xưởng may xã Đ, vì vậy ông không đồng ý trả tiền cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của thẩm phán, của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều tuân thủ đúng với quy định của pháp luật còn đối với bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chấp hành chưa đầy đủ quy định của pháp luật.
Về nội dung: Có căn cứ chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, sau khi đương sự trình bày ý kiến, Tòa án xét thấy:
[1] Về tố tụng: Bà Phạm Thị T và ông Nguyễn Thọ Ấ đều đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh T, căn cứ vào Điều 26; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình giải quyết vụ án là đúng pháp luật. Bà Phạm Thị T và ông Nguyễn Thọ Ấ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 vẫn vắng mặt tại phiên tòa, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt đối với bà T, ông Ấ.
[2] Về nội dung:
[2.1] Quá trình giải quyết vụ án bà T đều thừa nhận bà có vay của Ngân hàng TMCP Đ số tiền 20.000.0000đồng, lãi suất 9%/năm, thời hạn vay là 12 tháng bằng giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 25/5/2016, mục đích vay vốn là bà vay cho anh Đỗ Đại Q ở thôn X, xã Đ. Bà T không đồng ý trả nợ cho ngân hàng. Tuy nhiên bà T thừa nhận bà có vay tiền của Ngân hàng TMCP Đ số tiền 20.000.000đồng. Việc bà T sau khi vay tiền của Ngân hàng sau đó cho người khác vay là giao dịch dân sự khác không liên quan đến Ngân hàng, bà T có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác nếu có yêu cầu. Như vậy xác nhận có việc bà T vay của Ngân hàng TMCP Đ số tiền 20.000.000 đồng. Về lãi suất cho vay là 9%/năm, lãi quá hạn là 1,5 lần mức lãi trong hạn tức là 13,5% phù hợp với quy định của pháp luật.
[2.2] Về chữ ký Ấ – Nguyễn Thọ Ấ trong mục người bảo lãnh trong giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 25/5/2016, bà T và ông Ấ đều cho rằng không phải là chữ ký của ông Ấ, Tòa án đã giải thích quy trình giám định chữ ký nhưng bà T và ông Ấ không đề nghị giám định chữ ký, đại diện Ngân hàng cũng không đề nghị giám định chữ ký, Ngân hàng Đ đề nghị Tòa án chỉ buộc người vay có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng không yêu cầu người bảo lãnh phải trả nợ cho Ngân hàng.
[2.3] Theo quy định tại Phần IV “Phần cam kết của người bảo lãnh” trong Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 25/5/2016 thì trong trường hợp bà Phạm Thị T không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ hàng kỳ cho Đ Bank, ông Ấ sẽ trả nợ thay cho người vay cho đến khi hết nợ vay tại Đ Bank. Tuy nhiên do hồ sơ tín dụng lập chưa được chặt chẽ và Ngân hàng thương mại cổ phần Đ không yêu cầu người bảo Lãnh phải trả nợ tiền cho Ngân hàng, vì vậy chỉ buộc bà T có trách nhiệm trả nợ cho Đ Bank không buộc ông Ấ phải trả cho Đ Banhk.
[3] Về án phí: Bà T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật, Ngân hàng thương mại cổ phần Đ không phải chịu án phí.
[4] Về quyền kháng cáo: Ngân hàng thương mại cổ phần Đ, bà T, ông Ấ có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 122; Điều 471; Điều 474 Bộ luật dân sự 2005. Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ yêu cầu bà Phạm Thị T trả nợ.
Buộc Bà Phạm Thị T, sinh năm 1958; Địa chỉ: Thôn X, xã Đ, huyện Đ, tỉnh T phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ (trả tại chi nhánh huyện Đ, tỉnh Thái Bình) số tiền 8.672.875đồng trong đó tiền gốc là 7.009.230đồng; tiền lãi tính đến hết ngày 28/11/2018 là 1.663.645đồng gồm lãi trong hạn 230.770đồng; lãi quá hạn 1.432.875đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên thỏa thuận về việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng.
3. Về án phí: Bà Phạm Thị T phải chịu 433.000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Ngân hàng thương mại cổ phần Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại Ngân hàng thương mại cổ phần Đ 300.000đồng tiền tạm ứng đã nộp theo Biên lai thu số 0007756 ngày 11/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hưng.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm, báo cho những người có mặt biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà T, ông Ấ vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 24/2018/DS-ST ngày 28/11/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 24/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về