TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LẠC, TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 24/2017/HSST NGÀY 21/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 21 tháng 12 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng. Tòa án nhân dân huyện Bảo Lạc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2017/HSST ngày 09/11/2017 đối với bị cáo:
Lý Văn B (Tên gọi khác: Không);
Sinh ngày: 10/9/1972;
Nơi ĐKHKTT: Xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB;
Chỗ ở hiện nay: Xóm CC, Xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB;
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không;
Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 2/12;
Con ông: Lý Văn V (Đã chết);
Con bà: Lý Thị S - Sinh năm: 1932;
Trú tại: Xóm CC, Xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB;
Vợ: Nông Thị Đ - Sinh năm 1972;
Con: Có 02 con; Con lớn sinh năn 2002, con nhỏ sinh năm 2009;
Anh chị em ruột: Có 05 anh chị em, bị cáo là con út trong gia đình;
Tiền án: Năm 2014 bị Tòa án nhân dân huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng xử phạt 12 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép vật liệu nổ”. (Đã được xóa án tích).
Tiền sự: Không:
Bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Bảo Lạc, Cao Bằng từ ngày tạm giữ 06/9/2017 sau đó chuyển tạm giam đến ngày 09/10/2017 vì lý do bệnh tật, bị cáo được thay thế biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh tại nơi cư trú.
(Có mặt tại phiên tòa).
- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Thảo - Trợ giúp viên pháp lý - Thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Cao Bằng.
(Có mặt tại phiên tòa).
- Người bị hại: Lương Văn T - Sinh năm 1987;
Trú tại: Xóm PN, xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB (Có mặt tại phiên tòa).
- Người làm chứng:
1- Nông Văn D, Sinh năm 1980.
Trú tại: Xóm CC, Xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB;
(Vắng mặt tại phiên tòa).
2- Diều Văn TH, Sình năm 1981.
Trú tại: Xóm BM, Xã ĐP, huyện BL, tỉnh CB;
(Vắng mặt tại phiên tòa).
3- Hoàng Văn C, Sinh năm 1960.
Trú tại: Xóm CC, Xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB;
(Có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lạc truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 13 giờ ngày 05/9/2017 bị cáo Lý Văn B dẫn theo cháu nhỏ tên V là cháu ruột của B đi từ nhà của mình ở xóm CC, xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB đến nhà anh Nông Văn TN người cùng xóm với mục đích mượn xe máy để đưa cháu về nhà anh ruột của B tại xóm BR, xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB, nhưng không mượn được xe. B dẫn cháu đi qua nhà anh Lý Văn Q ở cùng xóm, B thấy chiếc xe máy hiệu LANDA, gắn biển kiểm soát 11F4-1668 của anh Lương Văn T trú tại xóm PN, xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB để ở trước cửa nhà anh Q, B đã nảy sinh ý định lấy chiếc xe máy chở cháu về nhà rồi đi mua ma túy về sử dụng, B quan sát thấy không ai qua lại, B liền ngồi lên xe đẩy xe trôi dốc đến nhà anh Nông Văn D thì B dừng xe lại vào nhà anh Nông Văn D mượn chiếc tuốc nơ vít, vặn ốc tháo chiếc mặt nạ chiếc xe, dùng tay rút dây ổ khóa điện ra rồi lắp lại, lắp xong B trả chiếc tuốc nơ vít rồi chở cháu V về nhà anh trai tại xóm BR, xã HĐ sau đó B điều khiển xe đến xã Huy Giáp, huyện Bảo Lạc tìm mua ma túy về sử dụng nhưng không mua được ma túy. B tiếp tục điều khiển xe đến xóm Bản Mioỏng, xã Đình Phùng mua một gói Heroine mà B không biết họ tên và địa chỉ cụ thể, chỉ biết người đó tên là VG. Sau khi mua được ma túy B đã điều khiển xe đến nhà Diều Văn TH trú tại BM, xã ĐP rồi cùng TH sử dụng ma túy, đến khoảng 17 giờ cùng ngày, sau khi ăn cơm xong, TH đưa cho B 200.000đ để đi mua ma túy về cùng nhau sử dụng. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày B lấy xe đi về nhưng do xe hết xăng nên B đã để xe máy lại nhà của Diều Văn TH và bắt xe khách đi về nhà. Đến ngày 06/9/2017 B bị Cơ quan Cảnh sát điều tra huyện Bảo Lạc bắt giữ vì hành vi trộm cắp tài sản nêu trên.
Ngày 07/9/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bảo Lạc đã ra quyết định trưng cầu định giá tài sản số: 27 đối với tài sản do Lý Văn B thực hiện hành vi trộm cắp; Căn cứ Kết luận định giá tài sản trộm cắp số: 24/BB - HĐĐG ngày 08/9/2017, trị giá tài sản bị trộm cắp là: 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).
Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Lạc đã lập hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lạc truy tố bị cáo về tội danh: Trộm cắp tài sản theo Điều 138 Bộ luật Hình sự.
Tại bản Cáo trạng số 26/CTr-VKS ngày 07/11/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng truy tố bị cáo: Lý Văn B về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1, Điều 138 Bộ luật Hình sự.
Tại cơ quan điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố.
Tại phiên tòa: Bị cáo cho rằng Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội, bị cáo không thay đổi lời khai và không khai thêm nội dung gì khác.
- Người bị hại yêu cầu được lấy lại chiếc xe máy do bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp. Ngoài ra không có yêu cầu gì khác.
Trong bản luận tội, vị đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo B và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p, khoản 1 Điều 46, Điều 60 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Đề nghị xử phạt bị cáo B từ 09 (chín) đến 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo; Thời gian thử thách từ 18 (Mười tám) đến 24 (Hai mươi tư) tháng. Về xử lý vật chứng đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu bồi thường thiệt hại về trách nhiệm dân sự. Nên không đặt ra để xem xét.
- Người bào chữa cho bị cáo phát biểu quan điểm bào chữa cho bị cáo: Về hành vi phạm tội của bị cáo đã bị truy tố là có căn cứ tôi không có gì cần tranh luận. Tôi đề nghị với Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Bị cáo đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; Ngoài ra bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, hậu quả thiệt hại không lớn nên cần áp dụng thêm điểm g khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất mà Viện kiểm sát đã đề nghị.
Bị cáo nhất trí với phần bào chữa của người bào chữa đã phát biểu và không có gì cần tranh luận thêm với phần luận tội của Viện kiểm sát.
Trong phần được nói lời sau cùng bị cáo xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo;
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[1] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa, hoàn toàn phù hợp với các lời khai tại Cơ quan Điều tra; Phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng về thời gian, địa điểm, đặc điểm tài sản bị xâm hại và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận: Lợi dụng việc sơ hở của người khác về quản lý tài sản, bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác nhằm mục đích tư lợi. Nên bị cáo đã có hành vi phạm tội cụ thể như sau:
Ngày 05/9/2017 bị cáo đã lấy trộm chiếc xe máy hiệu LANDA, gắn biển kiểm soát 11F4-1668 của anh Lương Văn TH trú tại xóm PN, xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB; Đến ngày 06/9/2017 thì bị cáo bị bắt về hành vi trộm cắp tài sản nêu trên. Trị giá tài sản do bị cáo trộm cắp là 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).
[2] Bị cáo B là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và sẽ bị pháp luật trừng trị. Hành vi mà bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật nhà nước bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, khiến dư luận bất bình và lo lắng.
[3] Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo sinh ra và lớn lên được bố mẹ cho ăn học nhưng bị cáo đã sớm bỏ học có trình độ văn hóa 2/12, do bản thân đua đòi, thích hưởng thụ, ăn chơi nên bị cáo đã nghiện chất ma túy. Bị cáo là người có nhân thân xấu, bị cáo đã có một tiền án đã được xóa án tích. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục có hành vi phạm tội với lỗi cố ý.
[4] Từ những lập luận nêu trên có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo đã cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lạc giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Bình về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Mức đề nghị hình phạt đối với bị cáo cũng tương xứng với mức độ nguy hiểm do hành vi của bị cáo đã gây ra.
[5] Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, hậu quả thiệt hại không lớn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm g, khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Khi đưa ra mức hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét đầy đủ đến các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng như về nhân thân của bị cáo. Bị cáo hiện nay bản thân đang bệnh tật đang được thay thế biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh tại nơi cư trú. Xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mà cho bị cáo được hưởng án treo, giao bị cáo cho UBND xã Hưng Đạo giám sát và giáo dục, gia đình phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo cũng đủ để răn đe và giáo dục bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự:
- Người bị hại không có yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết; Nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét về trách nhiệm dân sự.
[7] Về xử lý vật chứng: Trả cho ông Lương Văn TH - Sinh ngày 04/4/1987; Trú tại xóm PN, xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB 01 chiếc xe mô tô hiệu LANDA, biển kiểm soát 11F4-1668, xe không gương chiếu hậu, đuôi yên xe rách chỉ, xe đã qua sử dụng.
[8] Về án phí: Bị cáo là người bị kết tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lý Văn B phạm tội "Trộm cắp tài sản".
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; Điểm p, g khoản 1 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự.
- Xử phạt: Bị cáo Lý Văn B 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, thời gian thử thách được tính kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Lý Văn B cho Ủy ban nhân dân xã Hưng Đạo, huyện Bảo Lạc, tỉnh cao Bằng giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian bị cáo chấp hành hình phạt. Gia đình bị cáo B có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã Hưng Đạo, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng trong việc giám sát và giáo dục bị cáo.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện việc giám sát và giáo dục người được hưởng án treo theo điều 69 Luật thi hành án hình sự.
2. Về xử lý vật chứng: Trả cho ông Lương Văn TH - Sinh ngày 04/4/1987; Trú tại xóm PN, xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB 01 chiếc xe mô tô hiệu LANDA, biển kiểm soát 11F4-1668, xe không gương chiếu hậu, đuôi yên xe rách chỉ, xe đã qua sử dụng.
(Tang vật vụ án hiện nay đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Lạc theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/11/2017.)
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Bị cáo Lý Văn B phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.
Bị cáo và người bị hại có mặt tại phiên tòa, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 24/2017/HSST ngày 21/12/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 24/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lạc - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về