TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 24/2017/HNGĐ-ST NGÀY 10/07/2017 VỀ VIỆC LY HÔN GIỮA BÀ C VÀ ÔNG D
Ngày 10-7-2017 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đất Đỏ,tỉnh BRVT xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 90/2017/TLST-HNGĐ ngày 21-4-2017 về tranh chấp “Ly hôn,tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 31-5- 2017,Quyết định hoãn phiên tòa số 36/2017/QĐ-HPT ngày 19-6-2017 và Quyết định thay đổi kiểm sát viên tham gia phiên tòa số 04/QĐTĐ-KSV- VKS ngày 04-7-2017 của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc C -sn:1985 (có mặt)
Địa chỉ: tổ A, khu phố B, thị trấn D, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
2.Bị đơn: Ông Dương Hoàng D -sn:1978 (vắng mặt)
Địa chỉ: tổ A, khu phố B, thị trấn D, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
-Tại đơn khởi kiện đề ngày 13-4-2017 và trong quá trình xét xử,nguyên đơn Bà Nguyễn Thị Ngọc C trình bày:
Về hôn nhân: Bà C và ông D tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2002, được hai bên gia đình đồng ý và có tổ chức lễ cưới, nhưng đến năm 2010 mới đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn D, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 112 ngày 03-6-2010. Sau khi lấy nhau bà C và ông D chung sống hạnh phúc đến tháng 10-2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẩn,nguyên nhân do ông D chỉ lo ăn nhậu, không lo làm ăn, chăm lo gia đình nên vợ chồng thường xuyên xãy ra cãi nhau, ông D có đánh bà C vài cái, bà C đã khuyên can nhiều lần nhưng ông D vẫn không thay đổi. Từ tháng 4-2017 bà C và ông D đã sống ly thân, bà C cảm thấy hai bên không còn tình cảm, không còn quan tâm tới nhau nữa nên bà C đề nghị được ly hôn với ông D.
Về nuôi con chung: Bà C và ông D có 01 con chung là Dương Thị Mỹ D1 sinh ngày 15-3-2003. Hiện con chung đang sống cùng bà C và ông D,từ trước đến nay con chung do bà C nuôi dưỡng, bà C yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung. Bà C làm nghề buôn bán cá đồng tại chợ Đất Đỏ, thu nhập mỗi tháng từ 4-5.000000đ vì vậy đủ trang trải cuộc sống và nuôi con ăn học, bà C không có chứng cứ gì để chứng minh cho thu nhập của mình.
Về tài sản chung và nợ chung:bà C không yêu cầu Toà án giải quyết.
-Bị đơn Ông Dương Hoàng D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt.
Tại phiên tòa hôm nay ông D vẫn vắng mặt dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần.
-Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh BRVT tham gia phiên tòa phát biểu:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, HĐXX cũng như việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án này đúng theo những quy định của BLTTDS ,t uy nhiên bị đơn không chấp hành theo triệu tập của Tòa án là chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Việc Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ thụ lý vụ án là đúng theo quy định của pháp luật. Về yêu cầu của nguyên đơn thì thấy hôn nhân giữa các bên là hôn nhân hoàn toàn hợp pháp,có cơ sở xác định mâu thuẩn giữa các bên là trầm trọng nên nguyên đơn yêu cầu được ly hôn với bị đơn là có cơ sở, các bên có 01 con chung và xét thấy ông D không có nghề nghiệp ổn định nên giao con cho bà C nuôi là hợp lý và phù hợp với nguyện vọng của con chung là được sống cùng bà C và bà C cũng không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung,tài sản chung và nợ chung thì nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.Từ phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu,chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh BRVT nhận định:
[1]Về thẩm quyền: Đây là quan hệ về tranh chấp ly hôn,tranh chấp về nuôi con khi ly hôn và bị đơn trú tại huyện Đất Đỏ, tỉnh BRVT nên căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh BRVT.
[2]Về tố tụng: Ông D dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt nên tiến hành xét xử vắng mặt ông D là đúng theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[3]Về yêu cầu:
[3.1]Về hôn nhân: Hôn nhân giữa bà C và ông D có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn D, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 112 ngày 03-6-2010 (BL 04) nên là hôn nhân hoàn toàn hợp pháp.Về mâu thuẩn vợ chồng theo bà C thì do ông D chỉ lo ăn nhậu, không lo làm ăn, chăm lo gia đình nên vợ chồng thường xuyên xãy ra cãi nhau, ông D có đánh bà C vài cái, bà C đã khuyên can nhiều lần nhưng ông D vẫn không thay đổi. Từ tháng 4-2017 bà C và ông D đã sống ly thân, bà C cảm thấy hai bên không còn tình cảm,không còn quan tâm tới nhau nữa nên bà C đề nghị được ly hôn với ông D. Ông D dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt. Qua thực tế xác minh tại địa phương nơi bà C và ông D sinh sống thể hiện vợ chồng có xảy ra mâu thuẩn, việc cự cãi nhau là có thật, ông D không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, ai thuê gì thì làm đó và người nhà cũng thừa nhận là vợ chồng sống chung một nhà nhưng ít khi nói chuyện với nhau, lâu lâu lại cãi nhau,có lần ông D còn đánh bà C (BL 22,24) nên xét thấy vợ chồng chung sống xảy ra mâu thuẫn, không tôn trọng, đánh đập nhau và quan tâm lẫn nhau nên theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì yêu cầu của bà C là có cơ sở nên chấp nhận theo yêu cầu của bà C là được ly hôn với ông D.
3.2]Về nuôi con chung: Bà C và ông D có 01 con chung là Dương Thị Mỹ D1 sinh ngày 15-3-2003 (BL 05). Hiện con chung đang sống cùng bà C và ông D, từ trước đến nay con chung do bà C nuôi dưỡng, việc này địa phương cũng xác nhận (BL 24). Bà C yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung, dù ông D không đến phiên tòa nhưng qua thực tế xác minh về nghề nghiệp, thu nhập của ông D và nguyện vọng của con chung là được sống cùng bà C (BL 22, 24) nên có cơ sở chấp nhận theo yêu cầu của bà C, nếu sau này ông D có tranh chấp sẽ được giải quyết thành 01 vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật, điều này phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83, 84, 116 và 117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3.3]Về tài sản chung: Bà C không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét, nếu sau này các bên liên quan có tranh chấp sẽ được giải quyết thành 01 vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật, điều này phù hợp với quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3.4]Về nợ chung: Bà C không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét,nếu sau này các bên liên quan có tranh chấp sẽ được giải quyết thành 01 vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật, điều này phù hợp với quy định tại Điều 60 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 .
[4]Về án phí: Do là nguyên đơn nên bà C phải chịu án phí ly hôn theo loại án phí không có giá ngạch được quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27, tiểu mục 1.1, Mục 1, Phần II (Danh mục án phí) Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[5]Về quyền kháng cáo: Bà C và ông D được quyền kháng cáo theo luật định.
Vì các lẻ trên.
Căn cứ vào:
QUYẾT ĐỊNH
-Các Điều 56,57,59,60,81,82,83,84,116 và 117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
-Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
-Điểm a khoản 5 Điều 27, tiểu mục 1.1, Mục 1, Phần II (Danh mục án phí) Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1.Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Ngọc C được ly hôn với Ông Dương Hoàng D.
2.Về nuôi con chung: Bà C và ông D có 01 con chung là Dương Thị Mỹ D1 sinh ngày 15-3-2003. Hiện con chung đang sống cùng bà C và ông D. Bà C được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung. Ông D có trách nhiệm giao con chung cho bà C nuôi dưỡng.
Sau khi ly hôn bà C, ông D đều có nghĩa vụ trông nom,chăm sóc,giáo dục và nuôi dưỡng con chung. Ông D có quyền,nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Vì quyền lợi của con chung,trong trường hợp cần thiết theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
3.Về tài sản chung: Bà C không yêu cầu Toà án giải quyết.
4.Về nợ chung: Bà C không yêu cầu Toà án giải quyết.
5.Về án phí: Bà C phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) mà bà C đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0003427 ngày 20-4-2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ.Bà C đã nộp đủ án phí ly hôn.
Trường hợp bản án,quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự,người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án,quyền yêu cầu thi hành án,tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án,đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 24/2017/HNGĐ-ST ngày 10/07/2017 về việc ly hôn giữa bà C và ông D
Số hiệu: | 24/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/07/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về