Bản án 241/2021/HS-ST ngày 29/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 241/2021/HS-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 

Ngày 29 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 243/2021/ TLST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 255/  2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2021 đối với:

Bị cáo: N.Đ.N, sinh năm 19… tại thành phố Hà Nội. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ …, phường H, quận H, thành phố Hà Nội; nơi ở: Không xác định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông N.Đ.T (chết) và bà P.T.N; gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ năm; có vợ là N.T.Đ (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2009; tiền án: Ngày 20/3/2019, bị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 22 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (chấp hành xong hình phạt chính ngày 11/8/2020); nhân thân: Ngày 27/12/2005, bị Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Năm 2003 và năm 2006, bị Công an phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội bắt đi cai nghiện bắt buộc; Năm 2008,  bị Công an phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi Chống người thi hành công vụ; Năm 2009, bị Công an phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản, Gây rối trật tự công cộng, Ngược đãi hoặc hành hạ  ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình và bị Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội quyết định đưa vào cơ sở giáo dục 24 tháng; bị bắt quả tang ngày 11/5/2021, tạm giữ từ ngày 11/5/2021, tạm giam từ ngày  20/5/2021; danh chỉ bản số 274, lập ngày 18/5/2021 tại Công an quận Hai Bà  Trưng, thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 11/5/2021, tại khu vực trước cửa số nhà …, phố H, phường Q, quận H, thành phố Hà Nội, tổ công tác C2D2 PK02E - Công an thành phố Hà Nội phối hợp với tổ công tác Công an phường Q phát hiện N.Đ.N  điều khiển xe máy Vespa Sprint, không biển kiểm soát, có biểu hiện nghi vấn, nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, N đã thả từ lòng bàn tay trái 01 túi nilông màu trắng, kích thước 9 x 5 cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng. Theo yêu cầu của tổ công tác, N đã nhặt túi nilông lên và giao nộp cho cơ quan Công an. N tự khai tinh thể màu trắng trên là ma túy đá, mang theo để sử dụng. Tổ công tác đã niêm phong vật chứng và đưa N về trụ sở Công an phường Q giải quyết. Tại đây, lợi dụng sơ hở, N đã dùng tay xé rách phong bì niêm phong ma túy làm đôi. Sau đó, cơ quan Công an đã niêm phong lại vật chứng. Ngoài ra, cơ quan Công an còn tạm giữ 01 xe máy nhãn hiệu Vespa Sprint, không biển kiểm soát, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu Vsmart, có số Imei ngoài máy:

35172611091xxxx, đã qua sử dụng và số tiền 96.000 đồng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Hai Bà Trưng đã ra quyết định trưng cầu giám định vật chứng nghi là ma túy thu giữ của N.Đ.N. Tại Kết luận giám định số 3897/KLGĐ-PC09 ngày 17/5/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: “Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông kích thước  9x5cm đã bị rách thành hai phần là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng  2,389 gam”.

Tại Cơ quan Công an, N.Đ.N khai: Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 11/5/2021, N điều khiển xe máy Vespa Sprint, không biển kiểm soát, đến khu vực chùa Q,  phường Q, quận H, thành phố Hà Nội gặp một người bạn tên H (chưa xác định  được nhân thân, lai lịch) và được H cho 01 túi ma túy đá để sử dụng. N cầm số ma túy vừa được cho trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe máy đi tìm nơi sử dụng. Khi đến khu vực trước cửa số nhà …., phố H, phường Q, quận H, thành phố Hà Nội, thì bị cơ quan Công an kiểm tra, bắt giữ như trên.

Cơ quan Công an đã dẫn giải N.Đ.N đi xác định địa điểm được cho ma túy  và đối tượng “H” đã cho N ma túy. Kết quả, N xác định được địa điểm cho ma túy, nhưng không xác định được “H”. N khai N và “H” là quan hệ bạn bè xã hội, không biết tên, tuổi, địa chỉ, số điện thoại, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart, đã qua sử dụng thu giữ của N.Đ.N, quá trình điều tra xác định là tài sản của N, không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đối với số tiền 96.000 đồng thu giữ của N.Đ.N, quá trình điều tra xác định là tiền của N, không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Vespa Sprint, không biển kiểm soát, số khung RL9PCB8GNLAH0xxxx, số máy VLD138QMBMA00xxxx, đã qua sử dụng, thu giữ của N.Đ.N: Qua tra cứu, không có trong hệ thống quản lý phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, không nằm trong cơ sở dữ liệu xe tang vật, có số khung, số máy là số nguyên thủy. Xác minh tại Cục Đăng kiểm Việt Nam không có dữ liệu xe nhập khẩu đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Vespa Sprint có số khung, số máy như trên, nhưng trong dữ liệu quản lý phương tiện xe cơ giới sản xuất, lắp ráp của Cục Đăng kiểm Việt Nam, xe máy hai bánh trên mang nhãn hiệu NIOSHIMA, số loại NIO Plus, do Công ty TNHH T.T.P sản xuất, lắp ráp. Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu chiếc xe máy, nhưng không có người đến nhận. Vì vậy, ngày  30/7/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hai Bà Trưng đã ra quyết  định tách tài liệu liên quan đến chiếc xe máy trên để tiếp tục điều tra làm rõ.

Tại Cáo trạng số 225/CT-VKSHBT-HS ngày 19/8/2021, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố N.Đ.N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo N khai đã thực hiện hành vi như Cáo trạng truy tố, xin  được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng tham gia phiên tòa sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1  Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo N.Đ.N mức án từ 36 tháng đến 42 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 2,389 gam Methamphetamine; trả lại cho N 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart, đã qua sử dụng và số tiền 96.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo N.Đ.N không khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 11/5/2021, tại khu vực trước cửa số nhà …, phố H, phường Q, quận H, thành phố Hà Nội, N.Đ.N có hành vi tàng trữ trái phép 2,389 gam ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ quản lý, kiểm soát của Nhà nước đối với chất ma túy. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố và kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo N.Đ.N thành khẩn khai báo, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo N.Đ.N có 01 tiền án  chưa được xóa án tích, nên phạm tội lần này là tái phạm quy định tại điểm h khoản  1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về nhân thân: Bị cáo N.Đ.N có nhân thân xấu, gồm 01 tiền án đã xóa án tích và 07 tiền sự tính đến ngày phạm tội đã đủ thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính, thể hiện bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật kém, đã được các cơ quan pháp luật giáo dục, nhưng không tu dưỡng, rèn luyện, mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

[6] Về quyết định hình phạt: Điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy thì “bị phạt tù từ 01 năm  đến 05 năm”. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo N.Đ.N cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

[7] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, do bị cáo N.Đ.N không có nghề nghiệp, tài sản, nên Tòa án không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 2,389 gam ma túy, loại Methamphetamine thu giữ của bị cáo N.Đ.N là vật cấm tàng trữ, nên phải tịch thu tiêu hủy. Đối với  01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart, đã qua sử dụng và số tiền 96.000 đồng thu giữ của N, là tài sản cá nhân của N, không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, nên trả lại cho bị cáo.

[9] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo N.Đ.N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[10] Đối với người đàn ông tên là “H” đã cho N.Đ.N ma túy: N khai không biết tên, địa chỉ, Cơ quan Công an đã tổ chức truy tìm, nhưng không xác định  được, nên không có căn cứ xử lý là đúng.

[11] Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Vespa Sprint, không biển kiểm soát, số khung RL9PCB8GNLAH0xxxx, số máy VLD138QMBMA00xxxx, đã qua sử dụng, thu giữ của N.Đ.N: Cơ quan điều tra đã xác minh, đăng báo tìm chủ sở hữu, nhưng không có người đến nhận. Do đó, ngày 30/7/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định tách tài liệu liên quan đến chiếc xe máy để tiếp tục  điều tra làm rõ là đúng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo N.Đ.N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản  1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt N.Đ.N 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt quả tang 11/5/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với N.Đ.N.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của  Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) bì niêm phong, bên trong có 2,389 gam ma túy, loại Methamphetamine (trừ 0,045 gam đã thu mẫu giám định), bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo N.Đ.N.

- Trả lại cho N.Đ.N 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart, đã qua sử dụng, bị vỡ màn hình, bật không lên nguồn, không kiểm tra được Imei trong máy, Imei ngoài máy là 35172611091xxxx.

Vật chứng đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng số 270/21 ngày 09/9/2021.

- Trả lại cho N.Đ.N số tiền 96.000đ (Chín mươi sáu nghìn đồng) theo Giấy nộp tiền ngày 09/8/2020 vào tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội - Phòng giao dịch quận Hai Bà Trưng.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo N.Đ.N phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo N.Đ.N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 241/2021/HS-ST ngày 29/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:241/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;