TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BT - THÀNH PHỐ HCM
BẢN ÁN 2391/2016/LĐ-ST NGÀY 28/11/2016 VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
Ngày 28 tháng 11 năm 2016 tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân quận BT xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 1158/2016/TLST-LĐ ngày 30 tháng 6 năm 2016, về việc: “Chấm dứt hợp đồng lao động” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 619/2016/QĐST-LĐ ngày 09 tháng 11 năm 2016, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông NĐ_Lưu Văn Q; địa chỉ: 369/17, NTL, phường 13, quận BT, Thành phố HCM;
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là ông Phan Văn Q, đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 25 tháng 4 năm 2016).
Bị đơn: BĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên A Thành phố HCM; địa chỉ: 27, NT, phường 7, quận X, Thành phố HCM;
Người đại diện hợp pháp của bị đơn là bà Kiều Thị Hoa, đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 06 tháng 9 năm 2016).
(Các đương sự đều có mặt tại phiên tòa)
NHẬN THẤY
Theo đơn khởi kiện ngày 16/6/2016 của nguyên đơn là ông NĐ_Lưu Văn Q và tại bản tự khai ngày 18/7/2016 của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Phan Văn Q trình bày:
Ông NĐ_Lưu Văn Q làm việc tại BĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên A Thành phố HCM (sau đây viết tắt là BĐ_Công ty A ) từ tháng 6 năm 1997 với vị trí ban đầu là nhân viên bảo vệ và sau cùng là công nhân cơ khí với hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Ngày 25 tháng 12 năm 2014 BĐ_Công ty A ban hành văn bản số 458/NV/CV-HCTC về việc thông báo cho ông NĐ_Lưu Văn Q nghỉ việc từ ngày 01 tháng 11 năm 2015; Ngày 22 tháng 10 năm 2015 BĐ_Công ty A ban hành quyết định số 998/QĐ-DK-HCTC về việc chấm dứt hợp đồng lao động với lý do hết tuổi lao động theo quy định.
Ông NĐ_Q cho rằng: Việc BĐ_Công ty A chấm dứt hợp đồng lao động là trái với quy định của pháp luật về lao động do ông NĐ_Q chưa đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội (mặc dù đã đủ tuổi nghỉ hưu) nên yêu cầu BĐ_Công ty A phải trả cho ông những khoản tiền sau đây:
- Tiền lương trong thời gian không được làm việc từ tháng 11 năm 2015 đến tháng 12 năm 2016 là 5.060.000 x 13 tháng = 65.780.000 đồng;
- Tiền bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội từ tháng 11 năm 2015 đến tháng 12 năm 2016 là 5.060.000 đồng x 13 tháng x 20% = 13.156.000 đồng;
- Ít nhất là hai tháng tiền lương là 5.060.000 đồng x 2 tháng = 10.120.000 đồng. Tổng số tiền mà BĐ_Công ty A phải trả là 89.056.000 đồng.
Bị đơn là BĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên A Thành phố HCM ủy quyền cho bà Kiều Thị Hoa trình bày:
Ông NĐ_Lưu Văn Q làm việc tại BĐ_Công ty A từ ngày 18/02/1997 với công việc ban đầu là nhân viên bảo vệ, từ tháng 01/2010 đến nay là công nhân cơ khí (thuộc loại lao động nặng nhọc, độc hại theo Quyết định số 915/LĐTBXH ngày 30/7/1996). Vào thời điểm năm 2014, trước khi ông NĐ_Q đến tuổi nghỉ hưu 10 tháng, do không có nhu cầu sử dụng lao động đối với ông NĐ_Q nên BĐ_Công ty A đã ban hành văn bản số 458/NV/CV- HCTC ngày 22/12/2014 về việc thông báo chấm dứt hợp đồng lao động kể từ ngày 01/11/2015. Sau khi nhận thông báo ông NĐ_Q không có ý kiến phản hồi nên ngày 22/10/2015 BĐ_Công ty A ban hành Quyết định số 998/QĐ-DK-HCTC về việc chấm dứt hợp đồng lao động với ông NĐ_Q, ngày 27/10/2015 ông NĐ_Q bàn giao toàn bộ công việc đồng thời nhận toàn bộ tiền trợ cấp thôi việc với tổng số tiền 139.745.520 đồng. Do đó, việc BĐ_Công ty A chấm dứt hợp đồng lao động với ông NĐ_Q là đúng quy định của pháp luật nên không đồng ý với các yêu cầu của ông NĐ_Q.
Tòa án đã giải thích quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong việc giao nộp chứng cứ, hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ chứng cứ. Các đương sự đều xác nhận không còn nộp thêm chứng cứ cho Tòa án và không yêu cầu Tòa án điều tra, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ; không yêu cầu Tòa án triệu tập những người khác tham gia tố tụng.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
1 . Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Quan hệ tranh chấp trong vụ án là tranh chấp về lao động được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 32 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.
2. Về các yêu cầu của đương sự:
Theo trình bày của các đương sự và hợp đồng lao động số 0400/2010 HĐLĐ-DK ngày 18/01/2010 thì ông NĐ_Lưu Văn Q và Công ty Dần khí ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn, công việc ông NĐ_Q là công nhân cơ khí, tổ cơ khí - Xưởng LPG Cát Lái. Ông NĐ_Q cho rằng: BĐ_Công ty A chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động khi đến tuổi nghỉ hưu nhưng chưa đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội là trái với quy định của pháp luật về lao động nên phải trả các khoản tiền:
- Tiền lương trong thời gian không được làm việc từ tháng 11 năm 2015 đến tháng 12 năm 2016 là 5.060.000 x 13 tháng = 65.780.000 đồng;
- Tiền bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội từ tháng 11 năm 2015 đến tháng 12 năm 2016 là 5.060.000 đồng x 13 tháng x 20% = 13.156.000 đồng;
- Ít nhất là hai tháng tiền lương là 5.060.000 đồng x 2 tháng = 10.120.000 đồng.
Xét thấy, ông NĐ_Lưu Văn Quân sinh ngày 25/10/1955, thời điểm năm 2014 ông NĐ_Lưu Văn Q 59 tuổi, công việc ông NĐ_Q đảm nhiệm là công nhân cơ khí, tổ cơ khí - Xưởng LPG Cát Lái thuộc loại công việc nặng nhọc, độc hại. Do không có nhu cầu sử dụng lao động nên ngày 22/12/2014 BĐ_Công ty A đã ban hành văn bản số 458/NV/CV-HCTC thông báo chấm dứt hợp đồng lao động đối với ông NĐ_Q kể từ ngày 01/11/2015; ngày 22/10/2015 BĐ_Công ty A ban hành Quyết định số 998/QĐ-DK-HCTC về việc chấm dứt hợp đồng lao động và vào ngày 27/10/2015 ông NĐ_Q bàn giao toàn bộ công việc cũng như nhận toàn bộ số tiền trợ cấp nghỉ việc.
Tại tòa, nguyên đơn cho rằng: Sau khi nhận thông báo số 458/NV/CV-HCTC ngày 22/12/2014 đã không đồng ý và có đề nghị được tiếp tục làm việc cho đến khi đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội là 20 năm theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, bị đơn không thừa nhận lời trình bày nêu trên, nguyên đơn lại không cung cấp chứng cứ để chứng minh. Hơn nữa, tại khoản 1 Điều 166 Bộ luật lao động quy định: “Người lao động cao tuổi là người tiếp tục lao động sau độ tuổi theo quy định tại Điều 187 của Bộ luật này”; Điều 167 Bộ luật lao động quy định: “1. Khi có nhu cầu, người sử dụng lao động có thể thoả thuận với người lao động cao tuổi có đủ sức khỏe kéo dài thời hạn hợp đồng lao động hoặc giao kết hợp đồng lao động mới theo quy định tại Chương III của Bộ luật này”, “3. Không được sử dụng người lao động cao tuổi làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm có ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của người lao động cao tuổi, trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của Chính phủ”; khoản 2 Điều 6 Nghị định 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định: “Khi người sử dụng lao động không có nhu cầu hoặc người lao động cao tuổi không có đủ sức khỏe thì hai bên thực hiện chấm dứt hợp đồng lao động”. Theo các quy định nêu trên thì khi người lao động đã đủ tuổi nghỉ hưu nhưng mong muốn được tiếp tục làm việc thì người sử dụng lao động phải có nhu cầu và người lao động có khả năng làm việc, trong vụ việc nêu trên cho thấy phía BĐ_Công ty A không có nhu cầu sử dụng ông NĐ_Q tiếp tục làm việc và không đồng ý kéo dài thời hạn hợp đồng lao động hoặc giao kết hợp đồng lao động mới theo quy định, nhất là khi công việc của ông NĐ_Q theo hợp đồng lao động với BĐ_Công ty A là công việc nặng nhọc, độc hại nên đã chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động khi đến tuổi nghỉ hưu là đúng quy định của pháp luật về lao động. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có cơ sở để chấp nhận.
3. Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu án phí lao động sơ thẩm nhưng thuộc trường hợp miễn nộp toàn bộ tiền án phí.
Bởi các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 166, các khoản 1, 3 Điều 167 Bộ luật lao động, khoản 2 Điều 6 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ; Điều 11 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông NĐ_Lưu Văn Q về việc: Tuyên bố BĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên A Thành phố HCM chấm dứt hợp đồng lao động đối với ông NĐ_Lưu Văn Q khi đến tuổi nghỉ hưu nhưng chưa đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội là trái pháp luật nên phải trả các khoản tiền: Tiền lương trong thời gian không được làm việc là 65.780.000 đồng, tiền bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội là 13.156.000 đồng và bồi thường hai tháng tiền lương là 10.120.000 đồng.
2. Về án phí: Ông NĐ_Lưu Văn Q phải chịu án phí lao động sơ thẩm nhưng thuộc trường hợp được miễn nộp toàn bộ án phí.
3. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 2391/2016/LĐ-ST về chấm dứt hợp đồng lao động
Số hiệu: | 2391/2016/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 28/11/2016 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về