TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 237/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 15 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 694/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2020 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 267/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 196/2020/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Mạc Thị H, sinh năm 1991; Địa chỉ: Thôn 10, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Phạm Văn T1, sinh năm 1987; Địa chỉ: Thôn 10, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 08 tháng 9 năm 2020 cùng các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, chị Mạc Thị H (nguyên đơn) trình bày:
Về hôn nhân: Chị Mạc Thị H và anh Phạm Văn T1 kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, được tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 32 ngày 11 tháng 5 năm 2009. Sau khi cưới vợ chồng sinh sống tại thôn 10, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên vợ chồng đã ly thân từ năm 2017 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Văn T1.
Về con chung: Chị Mạc Thị H và anh Phạm Văn T1 có ba con chung tên là Phạm Anh T2 sinh ngày 18/12/2009, Phạm Quang Đ sinh ngày 08/4/2012 và Phạm Anh P sinh ngày 23/7/2015. Hiện ba con đang khỏe mạnh, phát triển bình thường và do chị Mạc Thị H đang nuôi dưỡng nên khi ly hôn chị đề nghị nuôi cả ba con. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị đề nghị để chị và anh Phạm Văn T1 tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị Mạc Thị H và anh Phạm Văn T1 có tài sản chung, chị không đề nghị Tòa án giải quyết khi ly hôn.
Bị đơn là anh Phạm Văn T1 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng không trình bày quan điểm của mình.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng, bị đơn chưa tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng. Về việc giải quyết nội dung vụ án thì đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Cho ly hôn giữa chị Mạc Thị H và anh Phạm Văn T1. Giao ba con chung tên là Phạm Anh T2 sinh ngày 18/12/2009, Phạm Quang Đ sinh ngày 08/4/2012 và Phạm Anh P sinh ngày 23/7/2015 cho chị Mạc Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị Mạc Thị H và anh Phạm Văn T1 tự thỏa thuận giao nhận cho nhau. Về tài sản chung vợ chồng do Tòa án không thụ lý giải quyết khi ly hôn nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Về các tài liệu, chứng cứ và tình tiết của vụ án:
Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, các tình tiết mà các bên đã thống nhất: Về quan hệ hôn nhân, con chung và lý do đề nghị Tòa án giải quyết các quan hệ đó phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà đương sự giao nộp, phù hợp với tài liệu do Tòa án thu thập được, anh Phạm Văn T1 không có ý kiến gì nên thuộc trường hợp không phải chứng minh; Quan hệ tài sản chung vợ chồng đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đặt vấn đề phải chứng minh.
Các tình tiết mà các bên không thống nhất: Không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án Ly hôn, tranh chấp về nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Mạc Thị H vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, anh Phạm Văn T1 đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do; Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Mạc Thị H và anh Phạm Văn T1.
[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Mạc Thị H và anh Phạm Văn T1 được xác lập theo Giấy chứng nhận kết hôn số 32 ngày 11 tháng 5 năm 2009 của Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên thường xảy ra va chạm, mâu thuẫn trở nên căng thẳng, trầm trọng dẫn đến việc vợ chồng sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị Mạc Thị H xin ly hôn với anh Phạm Văn T1. Anh Phạm Văn T1 không trình bày quan điểm thể hiện chưa thực sự quan tâm đến hôn nhân. Căn cứ vào thực tế của quan hệ hôn nhân và quy định của pháp luật, áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Mạc Thị H với anh Phạm Văn T1.
[3] Về con chung: Chị Mạc Thị H và anh Phạm Văn T1 có ba con chung tên là Phạm Anh T2 sinh ngày 18/12/2009, Phạm Quang Đ sinh ngày 08/4/2012 và Phạm Anh P sinh ngày 23/7/2015. Khi ly hôn chị Mạc Thị H đề nghị được nuôi cả ba con, anh Phạm Văn T1 không trình bày quan điểm của mình. Tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của các đương sự thể hiện chị Mạc Thị H có điều kiện, khả năng và thời gian để chăm sóc con chung tốt hơn anh Phạm Văn T1, cả ba con chung đang do chị Mạc Thị H nuôi dưỡng, khỏe mạnh, phát triển bình thường và con Phạm Anh T2, Phạm Quang Đ có nguyện vọng ở với mẹ. Căn cứ vào nguyện vọng của con, tình hình thực tế và quy định của pháp luật nên áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao ba con chung cho chị Mạc Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị Mạc Thị H trình bày để tự thỏa thuận và anh Phạm Văn T1 không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản chung: Chị Mạc Thị H và anh Phạm Văn T1 không có yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chị Mạc Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Mạc Thị H và anh Phạm Văn T1.
2. Về nuôi con chung:
2.1. Giao ba con chung tên Phạm Anh T2 sinh ngày 18/12/2009, Phạm Quang Đ sinh ngày 08/4/2012 và Phạm Anh P sinh ngày 23/7/2015 cho chị Mạc Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Việc trực tiếp nuôi con chung được thực hiện cho đến khi từng con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
2.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
3. Về tài sản chung: Chị Mạc Thị H và anh Phạm Văn T1 không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Chị Mạc Thị H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị Mạc Thị H đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng tại Biên lai số 0002330 ngày 09 tháng 10 năm 2020; Chị Mạc Thị H đã nộp đủ án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Mạc Thị H, anh Phạm Văn T1 không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 237/2020/HNGĐ-ST ngày 15/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 237/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về