Bản án 237/2019/HS-ST ngày 21/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 237/2019/HS-ST NGÀY 21/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 251/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 260/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Hoàng Duy K, sinh năm 1989, tại Thanh Hóa; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Số nhà 50 T, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng Mạnh P (đã chết) và bà Hồ Thị H (đã chết); có vợ là Hoàng Thị L và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/4/2019 đến ngày 04/5/2019 chuyển tạm giam. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

o khoảng 23 giờ ngày 25/4/2019, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố T làm nhiệm vụ tuần tra trên đoạn đường Trần Thị N, phường T, thành phố T. Khi tới ngõ 1, tổ công tác phát hiện Hoàn Duy K có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên tiến hành kiểm tra. Khi tổ công tác tiến hành kiểm tra Hoàng Duy K đã tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói ni lông màu trắng, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng. K khai đó là ma túy đá, K mua về để sử dụng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ tang vật (BL 01 - 02).

Tang vật thu giữ của K gồm:

- Một túi nilông màu trắng kích thước (5x7)cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng;

- Một cân tiểu ly màu đen đã qua sử dụng;

- Một xe mô tô Honda Wave RSX màu trắng đen, số khung RLHJA 3850JY001708, số máy JA 38E-0404535 đã qua sử dụng;

- 01 điện thoại di động Nokia màu đen số IMEL: 357295083521372 đã qua sử dụng Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, Hoàng Duy K khai nhận:

Do bản thân nghiện ma túy nên vào hồi 22 giờ 30 phút ngày 25/4/2019, K đến nhà chị gái Hoàng Thị T thấy có một xe mô tô không biển kiểm soát để trong sân, chìa khóa cắm trong ổ khóa, K lấy xe đi đến khu vực phường H, thành phố Thanh Hóa để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây K gặp một nam thanh niên tên thường gọi là D (móm) và mua của D (móm) một gói ma túy đá với giá 3.000.000đ. Sau khi mua được gói ma túy đá, K cất dấu trong người để sử dụng dần. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, K đi đến khu vực ngõ 01 Trần Thị N, phường T, thành phố T thì bị lực lượng Công an đến yêu cầu kiểm tra. K nhận thức việc làm của mình là vi phạm pháp luật nên tự giác giao nộp gói ma túy đá đang cất dấu trong người cho lực lượng Công an.

Ti bản kết luận giám định số 1103/PC09 ngày 28/4/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh kết luận: Các hạt tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,759g, loại Methamphetamine (BL 29).

n cứ lời khai của Hoàng Duy K, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã xác minh triệu tập Đàm Duy D, sinh năm 1985, trú tại 05/17 Trần Khát C, phường H, thành phố T để điều tra làm rõ việc D bán ma túy cho K. Kết quả ghi lời khai, đối chất Đàm Duy D không thừa nhận việc đã bán ma túy cho K. Không có ai biết, làm chứng việc K mua ma túy của D. Do đó cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T không có căn cứ để xử lý đối với Đàm Duy D.

Đối với chiếc xe mô tô K sử dụng để đi mua ma túy, quá trình điều tra đã xác định chiếc xe trên do Nguyễn Văn L, sinh năm 1989, trú tại số nhà 30 N 1, phường T, thành phố T mang đến nhà chị Hoàng Thị T (chị gái K) gửi để vay tiền. Chị T không biết chiếc xe trên do L phạm tội mà có. Khi Khánh đến nhà lấy xe đi chị T cũng không biết. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã chuyển chiếc xe máy trên đến đội Văn phòng điều tra Công an thành phố T để điều tra trong vụ án khác.

Ti bản cáo trạng số 235/CT-VKS-TPTH ngày 10/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hoá truy tố bị cáo Hoàng Duy K về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù.

Về vật chứng: đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tch thu tiêu hủy số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định.

- Tch thu tiêu hủy một cân tiểu ly màu đen không có giá trị.

- Trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động Nokia màu đen số IMEL: 357295083521372 đã qua sử dụng.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Ti phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung truy tố của cáo trạng và không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa bị cáo khai, do bản thân nghiện ma túy nên vào hồi 22 giờ 30 phút ngày 25/4/2019, bị cáo đi đến khu vực phường H, thành phố T để tìm ma túy về sử dụng. Tại đây bị cáo gặp một nam thanh niên tên thường gọi là D (móm) và mua của D(móm) một gói ma túy đá với giá 3.000.000đ. Sau khi mua được gói ma túy đá, bị cáo cất dấu trong người để sử dụng dần. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, bị cáo đi đến khu vực ngõ 01 Trần Thị N, phường T, thành phố Thanh Hóa thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ tang vật, qua giám định có tổng khối lượng 1,759g, loại Methamphetamine.

Li khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa, vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo có đủ dấu hiệu cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo có đủ nhận thức để biết rằng các loại ma túy nói chung và Methamphetamin nói riêng là chất gây nghiện được nhà nước thống nhất quản lý, nghiêm cấm hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, mặt khác hành vi phạm tội của bị cáo còn gây mất trật tự trị an tại địa phương và là một trong những nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, thấy rằng:

Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Vì vậy nên áp dụng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

t tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Đối với vật chứng: Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư, hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hoá là vật cấm lưu hành; một cân tiểu ly màu đen, cũ hỏng không có giá trị sử dụng vì vậy cần áp dụng khoản 1, điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma túy và chiếc cân tiểu ly này.

Chiếc điện thoại di động Nokia màu đen, đã cũ, Imel 35729508351372, là tài sản của bị cáo, bị cáo dùng để liên lạc với gia đình vì vậy căn cứ khoản 1, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội .

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a,c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Duy Khánh phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Hoàng Duy Khánh 20 (hai mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 25/4/2019.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì được đóng dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kèm chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đăng, Lưu Bình Nguyên, Nguyễn Đức Thuận.

Tch thu, tiêu hủy một cân tiểu ly màu đen, cũ hỏng.

Trả lại cho Hoàng Duy Khánh một điện thoại di động Nokia màu đen, Imel 35729508351372, điện thoại đã cũ.

Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa, theo biên bản giao nhận vật chứng số 193/THA ngày 12/7/2019 giữa Công an thành phố Thanh Hóa với Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7,9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 237/2019/HS-ST ngày 21/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:237/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;