Bản án 237/2019/HS-ST ngày 04/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 237/2019/HS-ST NGÀY 04/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 230/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 232/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Ngọc N (tên gọi khác: Nguyễn Văn M), sinh năm 1998 tại tỉnh An Giang. Nơi cư trú: Khóm B, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con bà Lê Thị Ngọc N (đã chết), không rõ tên cha; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không có. Bị bắt, tạm giam ngày 18/3/2019 cho đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lâm Văn L, sinh năm 1978; trú tại: Ấp P, xã Đ, huyện C, tỉnh Hậu Giang. (có yêu cầu xét xử vắng mặt).

Người làm chứng: Ông Trần Văn N (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 18 tháng 3 năm 2019, khi tổ tuần tra của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương phối hợp với Công an phường Bình Chuẩn tiến hành tuần tra tại địa chỉ số 26/2 khu phố P, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương thì nhận thấy đối tượng Lê Ngọc N đang điều khiển xe mô tô biển số 95H1-409.42 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra và phát hiện trong túi quần phía trước bên phải N đang mặc có cất giấu 01 gói nylon hở một đầu bên trong có 10 gói nylon hàn kín đều chứa tinh thể màu trắng, N khai nhận là ma túy đá nên lực lượng Công an tiến hành lập biên bản niêm phong tang vật đưa đối tượng N về trụ sở Công an làm việc.

Qua điều tra, bị cáo Lê Ngọc N khai nhận vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 17/3/2019, N đến khu vực ngã tư M thuộc phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương mua 12 gói ma túy đá với số tiền 700.000 đồng từ một người thanh niên không rõ nhân thân lai lịch, mang về sử dụng hết 02 gói và cất giấu 10 gói trong người nhằm mục đích sử dụng thì bị kiểm tra bắt giữ.

Ngày 27/3/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có kết luận giám định số 249/MT-PC09 với nội dung: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,0426 gam (M1) và 0,8953 gam (M2), đều là loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 229/CT-VKS-TA ngày 06/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Lê Ngọc N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Lê Ngọc N từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 bì thư niêm phong ghi số 249/PC09 là vật chứng trong vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô biển số 95H1-409.42, qua điều tra xác định xe trên thuộc sở hữu của ông Lâm Văn L, ông L cho con là ông Lâm Nhật T mượn xe đi làm, bị cáo N mượn xe của T để đi công chuyện, việc N sử dụng xe vào mục đích phạm tội ông L và ông T không biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe cho ông L là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với người thanh niên đã bán ma túy cho Lê Ngọc N, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng theo nội dung Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Ngọc N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo trước Tòa. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của người làm chứng, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 18/3/2019, tại địa chỉ 26/2 khu phố P, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương, bị cáo Lê Ngọc N thực hiện hành vi tàng trữ 10 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, qua giám định xác định mẫu tinh thể trên là ma túy, có tổng khối lượng (trọng lượng) 0,9379 gam, loại Methamphetamine.

Do đó, Cáo trạng truy tố bị cáo Lê Ngọc N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được hành vi cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng là vi phạm pháp luật Hình sự nhưng để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã cất giấu ma túy, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Vì vậy phải xét xử mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo hiện không xác định được nhân thân lai lịch, nên sẽ xử lý ở một vụ án khác khi có căn cứ.

Li đề nghị của đại diện Viện kiểm sát có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 bì thư niêm phong ghi số 249/PC09 là vật chứng trong vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô biển số 95H1-409.42, qua điều tra xác định xe trên thuộc sở hữu của ông Lâm Văn L, ông L cho con là ông Lâm Nhật T mượn xe đi làm, bị cáo N mượn xe của T để đi công chuyện, việc N sử dụng xe vào mục đích phạm tội ông L và ông T không biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe cho ông L là có căn cứ, đúng pháp luật

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Ngọc N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/3/2019 2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu, tiêu hủy 01 bì thư đã niêm phong ký hiệu 249/MT-PC09 là mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương (theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28/8/2019).

3. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Ngọc N phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 237/2019/HS-ST ngày 04/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:237/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;