TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 235/2017/HSST NGÀY 12/07/2017 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 7 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 316/2017/HSST ngày 08/6/2017 đối với bị cáo:
Trần Hảo N; sinh năm: 1979 tại Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; nơi cư trú: Đường A, phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: không; con ông D và bà E; chưa có vợ con; Tiền án: Ngày 06/3/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố X xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội "Cướp giật tài sản"; Tiền sự: không. Bị bắt tạm giam từ ngày 30/6/2016 (có mặt).
Người bào chữa: Ông Trịnh Bá Thân - Luật sư Văn phòng Luật sư Trịnh Bá Thân, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
NHẬN THẤY
Bị cáo Trần Hảo N bị Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 30/6/2016, Trần Hảo N một mình điều khiển xe mô tô loại xe Yamaha Mio Classico, biển số 59K1-87622. Khi dừng xe chờ đèn xanh tại giao lộ đường Nguyễn Thị Nghĩa với Lê Lai, phường Bến Thành, Quận 1, N nhìn thấy bà BNB (Quốc tịch Mỹ) và ông AAB (Quốc tịch Mỹ) đang đi bộ băng qua đường, trên vai bà BNB có đeo một túi xách, Nhân liền nảy sinh ý định cướp giật tài sản. Nhân điều khiển xe mô tô chạy áp sát từ phía sau bên phải bà BNB, dùng tay trái giật chiếc túi xách nêu trên, nhưng bà BNB giật lại được, làm chiếc túi xách bị rách ở mặt trước. Cướp giật chiếc túi xách không thành công, N tăng ga chạy tẩu thoát. Lúc này, anh Đào Tiến Toàn, anh Nguyễn Quang Tuyến (là Công an Quận 1) đang đi tuần tra và anh Mã Đại Khoa đang đi trên đường chứng kiến sự việc. Anh Tuyến, Toàn truy đuổi N qua các tuyến đường, anh Toàn bắn súng chỉ thiên 03 phát nhưng N không dừng xe. Anh Toàn tiếp tục bắn vào xe làm đạn trúng chân trái của N nhưng N tiếp tục bỏ chạy. Khi đến trước nhà số 37 Đỗ Quang Đẩu, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 thì bắt được N đưa về Công an phường Bến Thành, Quận 1 lập biên bản phạm tội quả tang.
Vật chứng của vụ án: Thu giữ của người bị hại: 01 (một) túi xách màu hồng bên trong đựng:
- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung SGH-1537, số Imei: 357365050464698;
- 20.000 (hai mươi ngàn) đồng tiền Indonexia;
- 01 (một) ví tay cầm màu cam bên trong có: 400.000 đồng; 01 thẻ Visa số 48331600352306 mang tên BNB.
Tại kết luận định giá tài sản số 201/KLĐGTS ngày 14/10/2016, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Uỷ ban nhân dân Quận 1 kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung SGH-1537 có giá trị là 2.815.000 đồng; 01 túi xách màu hồng có giá trị 150.000 đồng; 01 ví tay màu cam có giá trị 85.000 đồng; và tỷ giá ngoại tệ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh cung cấp từ ngày 21/6/2015 đến ngày 30/6/2015, 20.000 đồng tiền Indonexia tương đương 33.200 đồng (1 IDR = 1,66 đồng).
Tổng giá trị tài sản cướp giật là 3.483.200 đồng. Tất cả tài sản trên đã trả lại cho người bị hại.
Thu giữ của bị cáo:
- 01 (một) điện thoại di động hiệu ASUS màu đen, bể màn hình, số Imei 1: 35226072160769, số Imei 2: 352260072160777;
- 01 (một) điện thoại di động hiệu LETV màu trắng, bể màn hình, ID: 2015CP0535;
- 01 (một) áo thun màu nâu bị rách;
- 01 (một) quần lửng màu vàng bị rách;
- 01 mũ bảo hiểm màu xanh đen;
- 01 bóp màu trắng bên trong có:
+ 1.900.000 (một triệu chín trăm ngàn) đồng (gửi tại kho bạc Nhà nước);
+ 170 (một trăm bảy mươi) EURO (gửi tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam - Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh);
+ 01 (một) giấy bán xe biển số 59K1-876.22 mang tên Nguyễn Thị H;
+ 01 (một) giấy bán xe biển số 62K9-4748;
+ 01 (một) giấy đăng ký xe biển số 62K9-4748 mang tên Trần Văn L;
+ 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Trần Hảo N số AB965842;
+ 01 (một) giấy chứng minh nhân dân mang tên Trần Hảo N số 079079000319, cấp ngày 15/01/2016;
+ 01 (một) thẻ ATM Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) số 9704180039912332 tên Trần Hảo N;
+ 01 (một) thẻ ATM Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Á số 9704061190445694 tên Trần Hảo N;
+ 01 (một) giấy đăng ký xe biển số 59K1-876.22 mang tên Lê Trí T;
+ 01 (một) xe mô tô loại xe Mio màu đỏ, biển số 59K1-876.22, số khung: WP104Y010526. Qua xác minh, xe mô tô này mang tên chủ sở hữu là Lê Trí T (sinh năm 1977; ngụ tại: Đường A1, Phường A2, Quận C2, Thành phố Hồ Chí Minh). Hiện ông T đã bán nhà từ năm 2012 đi đâu không rõ. Trần Hảo N khai xe mua xe này của bà Nguyễn Thị H (sinh năm: 1976; số CMND: 023377650), xác minh số chứng minh nhân dân này không có trong hệ thống tàng thư lưu trữ.
Ngoài ra còn thu giữ 02 vỏ đạn quân dụng đã nhập kho vật chứng.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, bà BNB đã về nước và từ chối tham dự phiên tòa.
Tại bản Cáo trạng số 86/CT-VKS-P2 ngày 18/01/2017 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Hảo N về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu: Áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo theo Bộ luật Hình sự 2015 xác định bị cáo đã được xóa án tích, do đó bị cáo không thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” theo điểm c khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự, do đó Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh rút một phần truy tố đối với bị cáo, chỉ truy tố bị cáo Trần Hảo N phạm tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự và đề xuất khung hình phạt đối với bị cáo từ 03 (ba) năm đến 04 (bốn) năm tù. Về phần vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định pháp luật.
Bị cáo Trần Hảo N thừa nhận hành vi phạm tội của mình và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Luật sư đồng tình với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố đối với bị cáo, tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét ý thức của bị cáo tại thời điểm phạm tội vì đang phải uống thuốc điều trị tâm thần, bị cáo phạm tội do bộc phát nhất thời, phạm tội chưa đạt, chưa gây thiệt hại và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo vả tỏ ra ăn năn hối cải để cân nhắc cho bị cáo một mức án nhẹ hơn mức án mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Căn cứ vào chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, luật sư và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Trần Hảo N thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Căn cứ vào lời khai nhận của bị cáo, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, xác định được như sau: Vào ngày 30/6/2016, do nảy sinh lòng tham, bị cáo Trần Hảo N đã điều khiển xe mô tô biển số 59K1-87622 chạy áp sát từ phía sau bên phải bà BNB và dùng tay trái giật chiếc túi xách bà BNB đang đeo nhưng không thành đã tìm cách tẩu thoát và bị bắt giữ giao công an. Hành vi của bị cáo N sử dụng xe máy làm phương tiện phạm tội là “dùng thủ đoạn nguy hiểm” đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự.
Căn cứ theo khoản 2 Điều 7, điểm b khoản 2 Điều 70 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì bị cáo không thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” do đã được xóa án tích. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh rút một phần nội dung truy tố bị cáo theo điểm c khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự, chỉ truy tố bị cáo theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến tài sản của du khách người nước ngoài, làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh con người Việt Nam, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang và bất an cho người dân sinh sống trong khu vực. Bị cáo có nhân thân xấu, từng bị xử phạt về hành vi phạm tội này nay tiếp tục phạm tội cho thấy bị cáo xem thường luật pháp Nhà nước, chưa nhận thức được hành vi sai phạm của bản thân, nên lần phạm tội này phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng cải tạo tốt.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo cũng thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội chưa gây thiệt hại nên áp dụng điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại - bà BNB đã nhận lại tài sản và xuất cảnh về nước, không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về xử lý vật chứng:
- Đối với xe hai bánh gắn máy hiệu Yamaha biển số 59K1-876.22 qua xác minh tại cơ quan điều tra chưa xác định được chính xác chủ sở hữu thực tế là ai, do đó Hội đồng xét xử giao xe trên cho Cơ quan Thi hành án tiếp tục thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng, nếu hết thời hạn trên vẫn chưa tìm được chủ sở hữu thì tịch thu, sung quỹ Nhà nước chiếc xe trên.
- Đối với 02 điện thoại di động; 01 bóp cũ màu trắng; 01 giấy đăng ký xe biển số 62K9-4748 mang tên Trần Văn L, 01 giấy phép lái xe mang tên Trần Hảo N; 01 giấy CMND mang tên Trần Hảo N; 02 thẻ ATM mang tên Trần Hảo N; số tiền 1.900.000 đồng và 170 EURO là đồ vật cá nhân của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.
- Đối với 01 áo thun màu nâu rách, 01 quần lửng màu vàng bị rách, 01 mũ bảo hiểm màu xanh đen và 02 vỏ đạn quân là vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Trần Hảo N phạm tội “Cướp giật tài sản”. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009. Xử phạt bị cáo Trần Hảo N 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/6/2016.
Áp dụng Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Giao 01 xe hai bánh gắn máy nhãn hiệu Yamaha, loại xe 02 bánh, số loại: Mio màu đỏ, biển số 59K1-876.22, số khung RLCM5WP104Y010526, số máy 5WP110526 cho Cơ quan Thi hành án có thẩm quyền thông báo tìm chủ sở hữu trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng, nếu hết thời hạn trên vẫn chưa tìm được chủ sở hữu thì tịch thu, sung quỹ Nhà nước.
Trả lại cho bị cáo Trần Hảo N:
- Một điện thoại di động ASUS màu đen, bể màn hình, số Imei 1: 352260072160769, số Imei 2: 352260072160777;
- Một điện thoại di động LETV màu trắng, bể màn hình, ID: 2015CP0535;
- Một giấy đăng ký xe biển số 62K9-4748 mang tên Trần Văn L;
- Một giấy phép lái xe mang tên Trần Hảo N số AB965824;
- Một giấy CMND mang tên Trần Hảo N số 079079000319, cấp ngày 15/01/2016;
- Một thẻ ATM Ngân hàng BIDV số 9704180039912332 tên Trần Hảo N;
- Một thẻ ATM Ngân hàng Đông Á số 9704061190445694 tên Trần Hảo N.
- 1.900.000 (một triệu chín trăm ngàn) đồng hiện đang nộp tại Kho bạc Nhà nước Quận 10 (Theo giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 19/01/2017 – Bút lục 179).
- 170 (một trăm bảy mươi) EURO hiện đang gửi tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương Việt Nam Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh (Theo Giấy chứng nhận nộp tiền số hóa đơn 221216.2770.0016 – Bút lục 71).
Tịch thu tiêu hủy: 01 áo thun màu nâu bị rách; 01 quần lửng màu vàng bị rách; 01 mũ bảo hiểm màu xanh đen; 02 vỏ đạn quân dụng.
Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 235/2017/HSST ngày 12/07/2017 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 235/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/07/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về