Bản án 23/2024/HS-ST về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 23/2024/HS-ST NGÀY 25/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 3 năm 2024, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện B, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 19/2024/TLST- HS ngày 26 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2024/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 3 năm 2024 đối với:

- Bị cáo: Vũ Đại D, sinh năm 1999 tại xã L, huyện B, tỉnh H; nơi cư trú: thôn Tr, xã L, huyện B, tỉnh H; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn T và bà Dương Thị D; vợ, con: chưa; tiền án: không. Tiền sự: Ngày 25/6/2021, Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh H Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng, ngày 12/8/2023 chấp hành xong; ngày 20/10/2023, Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện M, tỉnh Đ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, ngày 24/10/2023 chấp hành xong Quyết định xử phạt vi phạm hành chính; bị tạm giữ từ ngày 31/12/2023, chuyển tạm giam từ ngày 06/01/2024 đến nay; có mặt.

- Bị hại:

1. Ông Đinh Quang T, sinh năm 1957; Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện B, tỉnh H; vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Xuân Ch, sinh năm 1974; Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện B, tỉnh H; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Bùi Văn V, sinh năm 1991; Địa chỉ: Thôn Trung S, xã L, huyện B, tỉnh H; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn D1, sinh năm 1984; Địa chỉ: Thôn Ng, xã A, huyện B, tỉnh H; có mặt.

3. Anh Đinh Văn C, sinh năm 1991; Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện B, tỉnh H; có mặt.

4. Anh Vũ Văn V, sinh năm 1986; Địa chỉ: thôn Đ, xã M, huyện M, tỉnh Đ; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 22/12/2023, Vũ Đại D điều khiển xe môtô BKS 90H9- xxxx đi từ chỗ ở đến thôn Đồng T, xã L, huyện B, tỉnh H với mục đích trộm cắp tài sản. Khi đến khu vực giếng đình V thuộc thôn Đ, xã L, huyện B, D nhìn thấy có 01 chiếc máy bơm nước của ông Đinh Quang T đang đặt trên thành giếng. Quan sát thấy không có người trông coi, D đi đến rút ổ cắm điện của máy bơm nước và dùng chân đạp rơi 02 đầu ống nước đang được lắp ở đầu hút và đầu xả của máy bơm nước ra rồi bê đặt lên xe môtô mang về nhà cất giấu. Đến chiều ngày 23/12/2023, D điều khiển xe môtô BKS 90H9-xxxx chở chiếc máy bơm nước đã trộm cắp được đến bán cho anh Nguyễn Văn D1 được số tiền 220.000 đồng. Đến ngày 25/12/2023, anh Đinh Văn C (là cháu ruột của ông Đinh Quang T) đến nhà anh D1 thu mua lại chiếc máy bơm nước trên. Sau khi mang chiếc máy bơm nước về nhà và biết chiếc máy bơm nước đó là của gia đình ông T bị mất trộm, anh C đã đưa lại chiếc máy bơm nước cho ông T sử dụng.

Đến khoảng 10 giờ ngày 26/12/2023, D điều khiển xe môtô BKS 90H9- xxxx đi đến nhà Bùi Văn V. D và V cùng rủ nhau đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. V điều khiển xe môtô BKS 90H9-xxxx chờ D ngồi sau đi đến xã T, huyện B. Khi đi đến khu vực trước cổng nhà ông Nguyễn Xuân Ch, D và V nhìn thấy có 02 vỏ bình gas giống nhau, đều có màu xanh để ở trong sân. Quan sát thấy không có ai, D nói với V dừng xe đứng chờ ở bên ngoài còn D đi bộ vào trong sân nhà ông Ch rồi dùng hai tay xách 02 vỏ bình gas mang ra ngoài. D ngồi phía sau ôm 01 bỏ bình gas, còn 01 vỏ bình gas được để ở giữa thân xe. Sau đó V điều khiển xe môtô chở D đi đến nhà anh Nguyễn Văn D1 bán 01 vỏ bình gas với giá 110.000 đồng; bán cho anh Vũ Văn V vỏ bình gas còn lại với giá 150.000 đồng. Toàn bộ số tiền bán được tài sản trộm cắp được D và V chia nhau chi tiêu cá nhân hết.

* Vật chứng của vụ án và phương tiện liên quan đã thu giữ:

- 01 máy bơm nước, màu sơn xanh, đã qua sử dụng do ông Đình Quang T tự nguyện giao nộp.

- 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Wave RSX BKS 90H9-xxxx do ông Vũ Văn T - sinh năm 1972 (là bố đẻ của Vũ Đại D), trú tại thôn Tr, xã L, huyện B, tỉnh H tự nguyện giao nộp.

- 01 vỏ bình gas đã qua sử dụng, vò màu xanh, bên trên có số 13.2 và dòng chữ SHEH APEC, chiều cao 60cm, đường kính đáy 30cm, trọng lượng 13,2kg do anh Nguyễn Văn D1 tự nguyện giao nộp.

- Đối với 01 vỏ bình gas các đối tượng đã bán cho anh Vũ Văn V, quá trình điều tra anh V trình bày đã bán phế liệu nên không có căn cứ để truy tìm, thu giữ.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐG ngày 04/01/2024 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B kết luận: “Trị giá của 01 (một) chiếc máy bơm nước JET 100, màu sơn xanh, công suất 750W, máy bơm đã cũ, đã qua sử dụng là: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)”.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 05/KL-HĐĐG ngày 23/01/2024 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B kết luận: “Trị giá của 02 vỏ bình gas nhãn hiệu SHEH APEC, đã qua sử dụng, màu xanh, trọng lượng vỏ bình là 13,2Kg; không có khí gas trong bình (ruột), vẫn sử dụng bình thường là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).

Cáo trạng số 23/CT-VKS-SH ngày 26/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh H truy tố Vũ Đại D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh H giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Đại D phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Đại D từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Đinh Quang T và ông Nguyễn Xuân Ch không yêu cầu bị cáo phải bồi thường; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn D1, anh Đinh Văn C và anh Vũ Văn V không có yêu cầu, đề nghị gì về trách nhiệm dân sự nên không đặt ra giải quyết.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Nguyễn Văn D1 và anh Đinh Văn C không có đề nghị gì về trách nhiệm dân sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Đại D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, lời nói sau cùng bị cáo, bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định đó.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Đại D đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, các bản kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 19 giờ ngày 22/12/2023, tại thôn Đ, xã L, huyện B, tỉnh H; Vũ Đại D đã trộm cắp 01 chiếc máy bơm nước có trị giá 300.000 đồng của ông Đinh Quang T rồi mang đi bán được số tiền 220.000 đồng. Đến khoảng 10 giờ ngày 26/12/2023, tại thôn Đ, xã T, huyện B, tỉnh H; Vũ Đại D cùng với Bùi Văn V đã trộm cắp 02 vỏ bình gas, có tổng trị giá 500.000 đồng của ông Nguyễn Xuân Ch rồi mang đi bán được tổng số tiền 260.000 đồng.

Mặc dù cả 02 lần bị cáo trộm cắp tài sản đều có trị giá dưới 2.000.000 đồng, nhưng do Vũ Đại D đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý mà lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên đã phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh H truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây bất bình trong nhân dân, ảnh hưởng đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy:

Về nhân thân: Bị cáo là đối tượng có tiền sự, đã bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh H áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện M, tỉnh Đ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Vũ Đại D khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân; bị cáo đã đầu thú. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xem xét đánh giá khách quan, toàn diện vụ án cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Hình phạt bổ sung: Căn cứ biên bản xác minh tài sản của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh H thấy bị cáo không có tài sản riêng gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình giải quyết vụ án, bị hại ông Đinh Quang T đã nhận lại 01 chiếc máy bơm nước, ông Nguyễn Xuân Ch đã nhận lại 01 vỏ bình gas. Ông T và ông Ch không yêu cầu bị cáo phải bồi thường; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn D1, anh Đinh Văn C và anh Vũ Văn V không có yêu cầu, đề nghị gì về trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[6] Về xử lý vật chứng của vụ án và phương tiện liên quan đã thu giữ: Quá trình điều tra vụ án xác định 01 chiếc máy bơm nước, màu sơn xanh đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của ông Đinh Quang T; 01 vỏ bình gas là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Xuân Ch; xe môtô BKS 90H9-xxxx là tài sản hợp pháp của ông Vũ Văn T, trong các ngày 22/12/2023 và 26/12/2023, ông T không biết việc Vũ Đại D điều khiển chiếc xe môtô để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh H đã trả lại các vật chứng, phương tiện nêu trên cho chủ sở hữu hợp pháp là có căn cứ.

[7] Về các vấn đề khác trong vụ án:

- Đối với hành vi của Bùi Văn V đã cùng với Vũ Đại D thực hiện hành vi trộm cắp 02 vỏ bình gas, có tổng trị giá 500.000 đồng ngày 26/12/2023, quá trình điều tra vụ án xác định V không có tiền án, tiền sự. Ngày 19/02/2024 Công an huyện B đã xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000 đồng đối với Bùi Văn V về hành vi “Trộm cắp tài sản” là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Quá trình điều tra vụ án xác định: Trong các ngày 22/12/2023 và 26/12/2023, ông Vũ Văn T không biết việc Vũ Đại D điều khiển chiếc xe môtô BKS 90H9-xxxx để đi trộm cắp tài sản; khi mua chiếc máy bơm nước và vỏ bình gas, anh Nguyễn Văn D1, anh Đinh Văn C và anh Vũ Văn V đều không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có. Do vậy, không có căn cứ để xem xét, xử lý đối với ông T, anh D1, anh C và anh V.

[8] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình sự: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 173, các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38; Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Tuyên bố bị cáo Vũ Đại D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Vũ Đại D 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/12/2023.

2. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Vũ Đại D phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án - anh D1, anh C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 23/2024/HS-ST về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:23/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Lục - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;