Bản án 23/2023/HS-ST về tội tàng trữ, sử dụng trái phép công cụ hỗ trợ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH HƯNG - TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 23/2023/HS-ST NGÀY 14/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CÔNG CỤ HỖ TRỢ

Ngày 14/8/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 28/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Vũ L, sinh ngày 01/01/2001, tại V, Long An; Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 6/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn N (đã chết) và bà Võ Thị H, sinh năm 1972. Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 28/4/2022, bị cáo bị Ủy ban nhân dân huyện V xử phạt vi phạm hành chính 15.000.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép công cụ hỗ trợ là 01 gậy dũ 03 khúc kim loại (Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1662/QĐ-XPHC ngày 28/4/2022). Bị cáo đã nộp phạt ngày 29/4/2022; Nhân thân: Không có nội dung cần ghi nhận.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú trong quá trình điều tra, truy tố. (Có mặt).

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng: Nguyễn Xuân T, sinh năm 1978; Võ Thị H1, sinh năm 1963; Cao Phước T1, sinh năm 1952. Cùng địa chỉ: Ấp B, xã V, huyện V, tỉnh Long An (tất cả vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào năm 2021, Nguyễn Vũ L mua 01 khẩu súng ngắn trên mạng Internet với giá 3.200.000 đồng rồi mang về nhà cất giấu. Tối ngày 23/01/2023, Nguyễn Xuân T nhờ L chở về nhà thuộc ấp B, xã V, huyện V. Khi đi ngang qua nhà ông Lê Văn C, T nhìn thấy Cao Vũ L1, Võ Văn Đ (là cháu và em vợ T) đang ở nhà ông C. Do có hiềm khích từ trước nên T xuống xe đi vào cự cãi và đánh vào mặt L1 một cái rồi đi ra để L tiếp tục chở T về nhà. Khoảng 02 phút sau, L1, Đ đến nhà Trường cự cãi, giằng co, đánh nhau với T. L vào can ngăn thì bị những người này đánh trúng. Do bị đánh, L tức giận chạy về nhà lấy khẩu súng ngắn đã mua trước đây, trong súng có 03 viên đạn và quay lại nhà ông T. Khoảng 20 giờ cùng ngày, khi L đi đến trước cửa nhà ông T, thấy còn đông người nhưng do trời tối nên không xác định có những ai, L nói “sao hồi nãy đánh tôi". L cầm súng đưa lên trời, bắn 01 viên đạn phát nổ làm những người xung quanh chạy tán loạn, L đi theo 04 - 05m tiếp tục bắn thêm 01 viên đạn nữa, không gây hậu quả đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác, còn 01 viên đạn rơi tại hiện trường, sau đó L đi về nhà. Đến ngày 28/01/2023, khi Công an mời làm việc L đã thừa nhận hành vi dùng súng bắn và giao nộp khẩu súng cho cơ quan chức năng.

Tại Kết luận giám định số 1181/KL-KTHS ngày 13/02/2023 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

Khẩu súng ngắn hiệu M&p 9c, số hiệu MP172116112 gửi giám định là công cụ hỗ trợ không phải vũ khí quân dụng. Súng sử dụng để bắn với đạn nổ uy hiếp và hơi cay cỡ (9×22)mm.

Vỏ đạn đã bắn và viên đạn đít đạn ký hiệu 9mm P. A gửi giám định là vỏ đạn và viên đạn nổ uy hiếp cỡ (9x22)mm. Đạn cỡ (9×22)mm thường sử dụng để bắn cho súng công cụ hỗ trợ cỡ 9 mm, súng tự chế có đường kính buồng đạn phù hợp với khẩu súng hiệu M&p 9c gửi giám định.

Tại Cáo trạng số 23/CT-VKSVH ngày 14/7/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng đã quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Vũ L về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép công cụ hỗ trợ” quy định tại khoản 1 Điều 306 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố vẫn giữ quan điểm như Cáo trạng đã truy tố bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Vũ L phạm tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép công cụ hỗ trợ”, áp dụng khoản 1 Điều 306, Điều 38, Điều 50, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Vũ L từ 03 (ba) tháng đến 06 (sáu) tháng tù. Do bị cáo không có nghề nghiệp và không có thu nhập ổn định nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 4 Điều 306 Bộ luật Hình sự.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự để xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 khẩu súng ngắn hiệu M&p 9c, số hiệu MP172116112, 01 viên đạn và 01 vỏ đạn.

Tại phiên tòa, bị cáo thống nhất nội dung Cáo trạng và quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định tố tụng và hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai trước Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, đúng với nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng đã truy tố bị cáo, đồng thời phù hợp với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ nên có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 20 giờ ngày 23/01/2023, tại đoạn đường trước nhà của ông Nguyễn Xuân T, thuộc ấp B, xã V, huyện V, Nguyễn Vũ L là người đã có 01 tiền sự về hành vi tàng trữ trái phép công cụ hỗ trợ đã sử dụng khẩu súng ngắn hiệu M&p 9c, số hiệu MP172116112 là công cụ hỗ trợ sử dụng đạn nổ, bắn lên trời hai phát, không gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Sau đó L mang súng về nhà cất giấu. Đến ngày 28/01/2023, khi Công an mời làm việc L thừa nhận đã mua súng từ năm 2021 về cất giấu và có hành vi dùng súng bắn chỉ thiên nhằm thị uy như trên, sau đó bị cáo đã giao nộp khẩu súng cho cơ quan chức năng.

[3] Bị cáo Nguyễn Vũ L là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo có 01 tiền sự về hành vi tàng trữ trái phép công cụ hỗ trợ nhưng đã tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ và sử dụng khẩu súng ngắn hiệu M&p 9c, số hiệu MP172116112 là công cụ hỗ trợ, bắn lên trời hai phát có đạn nổ đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các loại vũ khí, công cụ hỗ trợ, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội gây hoang mang lo sợ cho người dân ở địa phương, bị cáo phạm tội với lỗi cố ý nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép công cụ hỗ trợ” theo quy định tại khoản 1 Điều 306 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo với tội danh nói trên là có căn cứ, không oan cho bị cáo.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hiện nay hiện tượng thanh thiếu niên muốn thể hiện sự hiếu thắng, đã tự trang bị hung khí, công cụ hỗ trợ để đối phó trong những trường hợp gây gỗ đánh nhau trên địa bàn huyện V cũng như những địa phương khác vẫn đang diễn biến phức tạp gây ra nhiều hệ lụy xấu cho gia đình, xã hội và tiềm ẩn nhiều nguy cơ khác, gây mất an ninh trật tự công cộng, nếu không kịp thời ngăn chặn có thể gây ra những sự việc đáng tiếc làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của người khác. Do vậy, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc với loại tội phạm này nhằm mục đích cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và cũng để răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Xét về nguyên nhân, động cơ dẫn đến hành vi phạm tội xuất phát từ sự mất kiểm soát của bản thân bị cáo vì muốn thị uy trước mọi người, nổ súng nhằm uy hiếp tinh thần người khác nhưng không nghĩ đến hậu quả hành vi mình gây ra cho xã hội. Bản thân bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện.

[6] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, tỏ ra ăn năn hối cải nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Sau khi cân nhắc, xem xét toàn diện chứng cứ, các tình tiết của vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có thể cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và để phòng ngừa chung cho xã hội.

[7] Do bị cáo không có nghề nghiệp và không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 4 Điều 306 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

[8] Đối với một số người có mặt tại hiện trường, khi nghe tiến súng nổ họ cũng thể hiện sự hoảng sợ và bỏ chạy, tuy nhiên do bị cáo bắn lên trời và không gây thiệt hại về vật chất cho ai, quá trình điều tra cũng không có ai yêu cầu bồi thường về tổn thất tinh thần nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về vật chứng: Căn cứ quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử lý:

Tịch thu tiêu hủy 01 khẩu súng ngắn hiệu M&p 9c, số hiệu MP172116112, 01 viên đạn và 01 vỏ đạn.

Các vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Hưng quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/7/2023.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Quan điểm và đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Vũ L phạm tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép công cụ hỗ trợ”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 306, Điều 38, Điều 50, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Vũ L 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3. Về vật chứng: Căn cứ quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 khẩu súng hiệu M&p 9c, số hiệu MP 172116112 và 01 hộp tiếp đạn; 01 viên đạn nổ uy hiếp cỡ (9x22)mm, đít đạn ký hiệu 9mm P.A;

01 vỏ đạn đã bắn cỡ (9x22)mm, đít đạn hiệu 9mm P.A. Tất cả đã được đóng gói trong bì thư niêm phong dấu tròn đỏ của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, có chữ ký bên giao và bên nhận.

Các vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Hưng quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/7/2023.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Vũ L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

Báo cho bị cáo có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 23/2023/HS-ST về tội tàng trữ, sử dụng trái phép công cụ hỗ trợ

Số hiệu:23/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Hưng - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;