Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 23/01/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC YÊN, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 23/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/01/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 23 tháng 02 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số: 279/2020/TLST– HNGĐ ngày 20/11/2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2021/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 01 năm 2021; Thông báo mở lại phiên tòa số 06/TB-TA ngày 17/02/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Đàm Thị D – sinh năm 1980 Địa chỉ: Thôn T, xã K, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái (vắng mặt, có lý do)

2. Bị đơn: anh Vi Văn D – sinh năm 1971 Địa chỉ: Thôn T, xã K, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/11/2020, bản tự khai nguyên đơn Đàm Thị D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Vi Văn D kết hôn vào ngày 26/10/2004 trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã K, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận đến khoảng vài tháng gần đây thì phát sinh mâu thuân, nguyên nhân là do thời gian chị chủ yếu đi làm ăn xa dẫn đến vợ chồng bất hòa, không có tiếng nói chung, cuộc sống của ai người đấy lo. Hiện tại vợ chồng sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau. Đến nay xác định tình cảm không còn, chị D đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: chị và anh D có 01 con chung Vi Văn C, sinh ngày 15/11/2006, hiện tại đang ở cùng anh D. Sau khi ly hôn, chị có nguyện vọng để anh D trực tiếp nuôi dưỡng con chung, nếu anh D không đồng ý nuôi con chị sẽ là người trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu anh D cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 04/12/2020 và tại phiên tòa bị đơn Vi Văn D nhất trí về thời gian, địa điểm, điều kiện kết hôn với nội dung như chị D đã trình bày. Quá trình chung sống anh D cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn, chị D đi làm ăn xa và không quan tâm đến chồng con, cũng không về nhà. Nay chị D yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn, xác định tình cảm vẫn còn anh D không đồng ý ly hôn, nếu chị D vẫn giữ quan điểm ly hôn, anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: anh và chị D có 01 con chung Vi Văn C, sinh ngày 15/11/2006.

Sau khi ly hôn, anh có nguyện vọng để chị D trực tiếp nuôi dưỡng con chung vì bản thân anh không có khả năng nuôi dưỡng.

Về tài sản và công nợ chung: anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn có đơn yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa giải, do đó vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo khoản 4 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Yên phát biểu ý kiến cho rằng trong quá trình tố tụng, Tòa án và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử về nội dung vụ án như sau:

Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Về quan hệ hôn nhân giải quyết cho chị D được ly hôn với anh D, về con chung giao chị D trực tiếp nuôi dưỡng con chung Vi Văn C, anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn là phù hợp với quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: chị Đàm Thị D và anh Vi Văn D kết hôn vào ngày 26/10/2004 có đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Việc kết hôn này tuân thủ đúng các quy định của Luật hôn nhân và gia đình do đó đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu ly hôn của nguyên đơn: qua lời khai của các đương sự quá trình chung sống thực tế vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân do chị D đi làm ăn xa 10 năm nay, khoảng thời gian gần đây vợ chồng bất đồng quan điểm, không còn quan tâm đến nhau và sống ly thân. Lời khai của các đương sự là phù hợp với nội dung biên bản xác minh của Tòa án tại Thôn T, xã Khánh Thiện, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Đối với bị đơn anh D tuy không đồng ý ly hôn, nhưng anh thừa nhận mâu thuẫn và cũng không có biện pháp nào để khắc phục tình trạng hôn nhân. Tại phiên tòa hôm nay, chị D vẫn giữ nguyên quan điểm yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo nội dung đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”.

Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh D đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn, có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung: chị D và anh D có 01 con chung tên Vi Văn C, sinh ngày 15/11/2006, hiện tại đang ở cùng anh D. Kết quả xác minh xác định hiện tại anh Vi Văn D và con chung Vi Văn C là đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng do lùn bẩm sinh với mức gần 500.000đ/tháng, anh D không có khả năng lao động. Mặt khác, tại biên bản lấy lời khai cháu Cảnh có nguyện vọng ở cùng mẹ, chị D có việc làm và thu nhập ổn định.

Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của con chung, theo quy định tại Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, cần giao con chung cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, là phù hợp. Chị D không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: chị Đàm Thị D phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271, 273 của Bộ Luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56; 57; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 271, 273 của Bộ Luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: chị Đàm Thị D được ly hôn với anh Vi Văn D.

2. Về con chung: giao cho chị Đàm Thị D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Vi Văn C, sinh ngày 15/11/2006 cho đến khi đủ 18 tuổi. Anh Vi Văn D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: chị Đàm Thị D phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số AA/2017/0008366 ngày 20/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Chị D đã nộp đủ tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: án xử công khai sơ thẩm, anh D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 23/01/2021 về ly hôn

Số hiệu:23/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;