Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 21/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ - TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

 BẢN ÁN 23/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Huế (số 60 Nguyễn Huệ - Huế) xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số:38/2021/TLST-HNGĐ ngày 21/01/2021; Về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2021/QĐST- HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2021, Quyết định hoãn phiên toà số: 80/2021/QĐST- HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng N, sinh năm: 1981; địa chỉ: 64 đường N, phường V, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1980; địa chỉ và nơi cư trú cuối cùng: 64 đường N, phường V, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt, do đã bị tuyên bố mất tích.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 11/12/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Hồng N đều trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn T kết hôn tự nguyện, đã được UBND phường V, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế chứng nhận kết hôn vào ngày 06/11/2006. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị chung sống với nhau tại 64 Ngô Quyền, phường V, thành phố Huế, là nhà của bố mẹ chị. Quá trình chung sống với nhau hạnh phúc được một thời gian, đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không hợp tính nhau, bất đồng quan điểm sống, dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn. Anh T bỏ vào Nam làm ăn từ cuối năm 2014 cho đến nay không liên lạc gì với chị N và gia đình, vợ chồng không còn quan tâm gì đến nhau. Năm 2020, chị N có làm đơn yêu cầu tuyên bố anh T là người mất tích. Tại Quyết định số 81/2020/QĐST-DS ngày 22/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Huế đã tuyên bố anh Nguyễn Văn T là một người mất tích. Nay chị Nguyễn Thị Hồng N khởi kiện xin ly hôn anh T để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị N khai chị và anh Tri có 02 con chung là Nguyễn Ngọc Bảo T, sinh ngày 28/8/2007 và Nguyễn Ngọc Bảo C, sinh ngày 25/5/2014. Cả hai cháu hiện đang ở với chị N. Chị N có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn, anh Nguyễn Văn T: Đã bị Tòa án tuyên bố mất tích, theo quyết định số 81/2020/QĐST-DS ngày 22/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Huế.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyễn Văn T không có văn bản trình bày ý kiến gửi Tòa án, không đến Toà án để tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải. Tại phiên toà, anh T vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Tại bản tự khai ngày 13/4/2021, ông Nguyễn X (bố anh T) trình bày: Anh T và chị N kết hôn vào năm 2006, sau khi kết hôn, anh T nhập hộ khẩu thường trú tại nhà chị N ở 64 đường N, phường V, thành phố Huế. Đến năm 2015 thì anh T bỏ vào Nam làm ăn và không hề liên lạc gì với gia đình hai bên nội ngoại. Chị N cũng đã tìm kiếm khắp nơi nhưng không có tin tức gì. Hiện ông không biết anh T đang ở đâu. Sau khi Tòa án tuyên bố anh T mất tích thì từ đó cho đến nay ông vẫn không có tin tức gì về anh T. Nay chị N xin ly hôn anh T thì ông đề nghị Toà án giải quyết cho chị N được ly hôn và được trực tiếp nuôi con chung.

Tại bản tự khai ngày 16/4/2021, chị Nguyễn Thị H (em gái anh T) trình bày: Chị nhất trí với phần trình bày của ông X và đề nghị Toà án giải quyết cho chị N được ly hôn và được trực tiếp nuôi con chung.

Tại biên bản xác minh ngày 03/02/2021, chính quyền địa phương phường V cho biết:Anh T và chị N kết hôn hợp pháp tại UBND phường V, thành phố Huế vào ngày 06/11/2006. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau đến cuối năm 2014 thì anh T bỏ vào N làm ăn từ đó cho đến nay, hiện vẫn không có mặt tại địa phương.

Tại phiên tòa, chị N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn anh T, được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế có ý kiến:

[1] Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:

- Đối với nguyên đơn: đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 234 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với bị đơn: Đã bị Tòa án nhân dân thành phố Huế tuyên bố mất tích nên không xét đến .

[3] Quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 39, Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội để giải quyết theo hướng: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hồng Nhung.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng N được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Bảo T, sinh ngày 28/8/2007 và Nguyễn Ngọc Bảo C, sinh ngày 25/5/2014 cho chị Nguyễn Thị Hồng N tiếp tục trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Do chị N không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Buộc chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị N khởi kiện xin ly hôn anh T có nơi cư trú cuối cùng tại: 64 đường N, phường V, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Do đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Anh T đã bị Tòa án tuyên bố mất tích, đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia tố tụng tại phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T.

[2] Về nội dung:

[2.1] Chị N và anh T có quá trình chung sống với nhau, trên cơ sở tự nguyện, hai bên đã đăng ký kết hôn tại UBND phường V, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế theo giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 06/11/2006 (quyển số 01, số 55/2006). Do đó, đây là hôn nhân hợp pháp.

[2.2] Về yêu cầu xin ly hôn của chị N, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Căn cứ vào quyết định số 81/2020/QĐST-DS ngày 22/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Huế thể hiện anh Tri đã biệt tích từ cuối năm 2014 nên Tòa án đã tuyên bố anh T là một người mất tích; qua xác minh tại địa phương thì cho đến thời điểm hiện nay vẫn không có thông tin gì đối với anh T tại nơi cư trú. Như vậy, thể hiện anh T đã bỏ mặc vợ con, không còn quan tâm đến gia đình và tình cảm vợ chồng. Do đó, có cơ sở xác định hôn nhân giữa vợ chồng anh T và chị N lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được, nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N, cho chị N được ly hôn với anh T.

[2.3] Về con chung: Chị N và anh T có hai con chung là Nguyễn Ngọc Bảo T, sinh ngày 28/8/2007 và Nguyễn Ngọc Bảo C, sinh ngày 25/5/2014, hiện đang ở với chị N. Do hiện nay anh T là người mất tích nên cần giao các con chung cho chị N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi các cháu trưởng thành.

[2.4] Về cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn: Chị N chưa yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.6] Về án phí: Chị N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm gồm 300.000 đồng.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 51, Khoản 2 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hồng N.

Chị Nguyễn Thị Hồng N được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Bảo T, sinh ngày 28/8/2007 và Nguyễn Ngọc Bảo C, sinh ngày 25/5/2014 cho chị N tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Chị Nguyễn Thị Hồng N tạm thời không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Hồng N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Chị N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm gồm 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0002196 ngày 19/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Huế. Chị N đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 21/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:23/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;