Bản án 23/2020/HNGĐ-ST ngày 09/07/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 23/2020/HNGĐ-ST NGÀY 09/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 09 tháng 7 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài mở phiên Tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 187/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/QĐXX-ST ngày 30 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự;

- Nguyên đơn: Bà Trương Hoàng Thảo T – SN: 1993 Trú tại: Tổ 8, khu P, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Ông Hoàng Văn T – SN: 1989 Trú tại: Khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Phước.

(Các đướng sự có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 28 tháng 4 năm 2020 và quá trình giải quyết vụ án bà Trương Hoàng Thảo T trình bày:

Bà T và ông T tự nguyện tìm hiểu, yêu thương nhau, không ai ép buộc, tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2013, có làm thủ tục đăng ký kết theo quy định của pháp luật tại UBND thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, lý do mâu thuẫn là tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, không thống nhất được mọi việc trong gia đình, vợ chồng hay cãi nhau, ông T không quan tâm đến vợ con, bà T và ông T đã sống ly thân với nhau từ tháng 02 năm 2015 cho đến nay.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, bà T yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Trong thời gian chung sống bà T và ông T có 01 người con chung là cháu Hoàng Trương Như Q, sinh ngày 20 tháng 6 năm 2014.

Bà T yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 03 tháng 6 năm 2020, quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Hoàng Văn T trình bày.

Về quan hệ hôn nhân: Ông thống nhất như lời trình bày của bà T về thời gian chung sống, lý do mẫu thuẫn gia đình, hiện nay ông và bà T đã sống ly thân với nhau từ tháng 02 năm 2015 cho đến nay. Nay bà T yêu cầu được ly hôn với ông thì ông cũng đồng ý.

Về con chung: Trong thời gian chung sống ông và bà T có 01 người con chung là cháu Hoàng Trương Như Q, sinh ngày 20 tháng 6 năm 2014.

Ông đồng ý giao cháu Q cho bà T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, ông không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung; không yêu cầu tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu đầy đủ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Toà án nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền của Toà án: Đây là vụ án “Tranh chấp về ly hôn” do bà Trương Hoàng Thảo T đứng đơn khởi kiện, bị đơn ông Hoàng Văn T trú tại khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Phước. Căn cứ khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay vắng mặt nguyên đơn và bị đơn. Xét thấy, vào ngày 17 tháng 6 năm 2020 nguyên đơn bà Trương Hoàng Thảo T có đơn xin vắng mặt; Ngày 03 tháng 6 năm 2020 bị đơn ông Hoàng Văn T có đơn xin xét xử vắng mặt. Việc các bên yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt là hoàn toàn phù hợp pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng bà T, ông T.

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời trình bày của bà T, ông T và những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định bà T và ông T kết hôn năm 2013 tại Uỷ ban nhân dân thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện. Căn cứ quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình thì hôn nhân giữa bà T và ông T là hôn nhân hợp pháp.

[4]. Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa bà T, ông T; Trong quá trình giải quyết vụ án cả bà T, ông T đều thừa nhận từ khi ông bà ở với nhau thì thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, lý do mâu thuẫn là tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, không thống nhất được mọi việc trong gia đình, vợ chồng hay cải nhau, hiện nay bà T và ông T đã sống ly thân từ tháng 02 năm 2015 cho đến nay, bản thân ông bà cũng đồng ý ly hôn với nhau. Do đó, Hội đồng xét xử xác định mâu thuẫn giữa bà T, ông T là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không được duy trì nên Toà án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T.

[5]. Về con chung: Trong thời gian chung sống bà T, ông T có 01 người con chung là cháu Hoàng Trương Như Q, sinh ngày 20 tháng 6 năm 2014. Bà T yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án ông T cũng thống nhất đồng ý giao cháu Q cho bà T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, ông không phải cấp dưỡng nuôi con. Do đó, nhằm ổn định cuộc sống của cháu Q cần giao cháu cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ông T không phải cấp dưỡng nuôi con.

[6]. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[7]. Về án phí HNGĐ sơ thẩm: Bà Trương Hoàng Thảo T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 35, Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Hoàng Thảo T về việc Tranh chấp ly hôn” Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trương Hoàng Thảo T được ly hôn với ông Hoàng Văn T (Bà T và ông T kết hôn ngày 10 tháng 12 năm 2013 theo giấy chứng nhận kết hôn số 262/2013 Uỷ ban nhân dân thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai).

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Hoàng Trương Như Q, sinh ngày 20 tháng 6 năm 2014 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng; Ông T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.Vì lợi ích mọi mặt của con chưa thành niên, các bên đều có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con nếu có căn cứ cho rằng mình hoặc bên kia không đáp ứng được quyền lợi cho con.

3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Trương Hoàng Thảo T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0025910 ngày 02 tháng 6 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đồng Xoài; Bà T đã nộp đủ án phí.

4. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 23/2020/HNGĐ-ST ngày 09/07/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:23/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;