Bản án 23/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 23/2019/HS-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 4 năm 2019, tại Hội T xét xử A - Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2019/HSST ngày 26 tháng 3 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2019/HSST ngày 09 tháng 4 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Bá Nguyên T – sinh năm: 1982 Nơi cư trú: Ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam - Dân tộc: Kinh Nghề nghiệp: Không - Trình độ học vấn: 12/12 Họ tên cha: Nguyễn Bá C – Sinh năm: 1959 Họ tên mẹ: Trần Thị Ngọc M – sinh năm: 1959 Bị cáo là con lớn trong gia đình có 02 anh em Sống chung như vợ chồng với Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1985 Bị cáo có 01 con sinh năm 2015. Tiền sự: Không Tiền án: Ngày 01/9/2016 Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong án phạt tù ngày 11/10/2018.

Hiện bị cáo bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an huyện Thống Nhất từ ngày 11/01/2019 (có mặt).

* Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị Thanh T1 – sinh năm 1975

Nơi cư trú: Số 11/7B20 đường Q, phường 11, quận G, thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Bá Nguyên T là đối tượng có tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, vào sáng ngày 10/01/2019, T đón xe buýt đi từ quận 11 đến quận 12 thành phố Hồ Chí Minh (khu vực bến xe A) nhờ 01 người đàn ông (không biết rõ nhân thân, lai lịch) làm nghề chạy xe ôm mua 600.000 đồng ma túy đá về để sử dụng. Sau khi mua được ma túy đá, T cất dấu vào 01 ví da nhỏ (loại dùng làm móc khóa) để ở trong túi quần mặc trên người. Đến 17 giờ cùng ngày, T cùng bạn gái là Nguyễn Thị Thanh T1 đi từ quận 11, TP Hồ Chí Minh về Dầu Giây thuê phòng trọ số 12 nhà nghỉ H thuộc ấp T, xã B để nghỉ trọ qua đêm. Lúc này T1 đi ra ngoài để mua đồ dùng cá nhân, T ở lại phòng trọ lấy ma túy ra để sử dụng số còn lại T cất dấu vào 01 ví da nhỏ (loại dùng làm móc khóa) để ở ngăn ngoài phía sau giỏ xách của T1 để trên bàn. Khoảng 23 giờ cùng ngày Công an huyện Thống Nhất kiểm tra hành chính phát hiện số ma túy trên, T khai nhận là ma túy đá của T mua về để sử dụng. Cơ quan CSĐT Công an huyện Thống Nhất phối hợp với Công an xã B lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng gồm 01 túi nhỏ ni long có chứa tinh thể màu trắng, T khai nhận là ma túy đá, 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá.

Căn cứ Kết luận giám định số 104/PC09-GĐMT ngày 16/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 2,6890 gam, loại Methamphetamine.

Bản cáo trạng số 26/CT.VKS-HS ngày 26/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Nguyễn Bá Nguyên T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố.

* Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Bá Nguyên T từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù giam.

Về vật chứng của vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy 2,6002 gam Methamphetamine còn lại sau giám định.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bộ dụng cụ bằng thủy tinh để sử dụng ma túy đá.

 * Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin hứa từ bỏ ma túy, học tập cải tạo thành người tốt, trở thành con người mới, có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thống Nhất, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Bá Nguyên T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng số 26/CT.VKS-HS ngày 26/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất đã truy tố, đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 23 giờ ngày 10/01/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thống Nhất phối hợp với Công an xã B, huyện T kiểm tra hành chính tại nhà nghỉ H thuộc ấp T, xã B phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Bá Nguyên T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng là 2,6890 gam, loại Methamphetamine và thu giữ 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá để xử lý.

Như vậy, đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Bá Nguyên T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất truy tố bị cáo Nguyễn Bá Nguyên T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ đúng quy định pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý ma túy. Ma túy là chất gây nghiện, người nghiện ma túy sẽ bị ảnh hưởng đến thể chất, tinh thần. Tội phạm ma túy còn là nguyên nhân gây ra các tội phạm và tệ nạn xã hội khác nên Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ, sử dụng… trái phép chất ma túy. Do đó cần có mức án đủ nghiêm tương xứng với hành vi bị cáo đã gây ra nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Ngày 01/9/2016 Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong án phạt tù ngày 11/10/2018. Bị cáo đã bị kết án chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, do vậy cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là “tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bị cáo không có tiền sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, cần xem xét, cân nhắc trước khi lượng hình.

Đối tượng là người đàn ông chạy xe ôm ở khu vực bến xe A, quận 12, TP Hồ Chí Minh là người mua giúp ma túy cho bị cáo T (bản thân bị cáo không biết rõ nhân thân, lai lịch) Cơ quan Điều tra Công an huyện Thống Nhất có văn bản gửi đến Cơ quan CSĐT Công an quận 12, TP Hồ Chí Minh xác minh điều tra để xử lý theo quy định pháp luật.

Đối với Nguyễn Thị Thanh T1 là người ở chung với bị cáo T nhưng T1 không biết việc T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên không có căn cứ xử lý.

[5] Về vật chứng: gồm 2,6002 gam Methamphetamine còn lại sau giám định và 01 (một) bộ dụng cụ bằng thủy tinh để sử dụng ma túy đá cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 - Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bá Nguyên T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy

Xử phạt:  Bị cáo Nguyễn Bá Nguyên T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 11/01/2019.

* Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 2,6002 gam Methamphetamine còn lại sau giám định và 01 (một) bộ dụng cụ bằng thủy tinh để sử dụng ma túy đá của bị cáo Nguyễn Bá Nguyên T.

(Vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thống Nhất quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/3/2019)

* Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 23/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;