Bản án 23/2019/HS-ST ngày 18/09/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PA, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 23/2019/HS-ST NGÀY 18/09/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 18 tháng 9 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Pa, tình Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 17/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Ksor Th, sinh 1987 tại: huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai; Nơi ĐKHKTT: Buôn Gum Gốp (buôn Thiơl cũ), xã Ia Rmok, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai; Nơi cư trú: Buôn Bhă Nga, xã Ia Rmok, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 0/12; dân tộc: Jrai; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nay R (Y R Niê) và bà Ksor H’K (đã chết); Bị cáo có vợ và 03 con lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú và có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Ksor Tham: Bà Ngô Thị V - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Gia Lai. Có mặt

- Người bị hại:

+ Bà Kpă H’B1, sinh ngày 10/10/1945 (Đã chết)

Trú tại: Buôn Trinh, xã Ia H’Dreh, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai;

Người đại diện hợp pháp của người bị hại bà Kpă H’Blang:

+ Ông Rơ Ô K, sinh năm 1932 (là chồng bà Kpă H’Blang)

+ Bà Kpă H’P1, sinh năm 1975 (là con ruột bà Kpă H’Blang)

+ Ông Kpă S, sinh năm 1977 (là con ruột bà Kpă H’Blang)

+ Bà Kpă H’Nh, sinh năm 1979 (là con ruột bà Kpă H’Blang)

+ Anh Kpă S, sinh năm 1987 (là con ruột bà Kpă H’Blang)

+ Chị Kpă H’Nh, sinh năm 1988 (là con ruột bà Kpă H’Blang)

+ Chị Kpă H’B, sinh năm 1989 (là con ruột bà Kpă H’Blang)

+ Anh Kpă Th, sinh năm 1990 (là con ruột bà Kpă H’Blang)

Cùng trú tại: Buôn Trinh, xã Ia H’Dreh, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Ông Rơ Ô K, bà Kpă H’P1, ông Kpă S, bà Kpă H’Nh, chị Kpă H’Nh, chị Kpă H’B, anh Kpă Th ủy quyền cho ông Kpă S tham gia tố tụng(theo văn bản ủy quyền được chứng thực ngày 01/01/2019). Hiện ông Kpă S có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Nay H’Ô, sinh năm 1988;

Trú tại: Buôn Bhă Nga, xã Ia Rmok, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai (vắng mặt đã có đơn xét xử vắng mặt)

- Người làm chứng:

+ Anh Nay B, sinh năm 1993;

Trú tại: Buôn Nông Siu, xã Ia Rmok, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai (Có mặt)

+ Ông Nay P, sinh năm 1960;

Trú tại: Buôn Chờ Tung (buôn Bầu cũ), xã Ia H’Dreh, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. (Vắng mặt)

- Người phiên dịch tiếng Jrai: Anh Nay Dăm Tr, sinh năm 1986

Trú tại: Tổ dân phố 12, thị trấn Phú Túc, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 11 giờ ngày 09/12/2018, Ksor Th điều khiển công nông độ chế, lưu thông trên đường Đông Trường Sơn theo hướng từ xã Krông Năng đi xã Ia Rmok. Khi đến đoạn buôn Bầu (nay là buôn Chờ Tung), xã Ia H’Dreh, thì gặp một đàn bò đi ngược chiều. Ksor Th giảm tốc độ, điều khiển xe tránh sang lề đường bên phải nhằm tránh va chạm với đàn bò. Khi cách đàn bò 04 (bốn) mét thì có một con bò lao về phía đầu xe, Ksor Th điều khiển xe đánh lái sang sát lề đường bên phải để tránh va chạm với con bò đang lao tới. Khi xe vừa di chuyển qua lề đường bên phải tông vào bà Kpă H’B1 đi bộ cùng chiều bên lề đường, bà Kpă H’B1 ngã sấp xuống mặt đường, bánh xe phía sau bên phải lăn qua vùng lưng bà H’B1. Hậu quả bà Kpă H’B1 bị thương nặng và tử vong tại trung tâm y tế huyện Krông Pa.

Về hiện trường: Hiện trường nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông nằm trên đường Đông Trường Sơn, đoạn qua buôn Bầu (nay là buôn Chờ Tung), xã Ia H’Dreh, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Mặt đường bê tông, rộng 7,12m, đoạn đường không bị che lấp, hiện trường đã bị xáo trộn. Lấy lề đường bên phải theo hướng từ xã Krông Năng đi xã Ia H’Dreh làm lề chuẩn, dưới lề đường, cách trụ điện cao thế số 479/09H (được đánh số 04) 18,55m về hướng Đông Nam phát hiện một xe công nông (đánh số 03) đầu quay về lề đường bên phải, đuôi quay ra đường Đông Trường Sơn, trục trước bên trái cách lề đường 5,3m, trục sau bên phải cách lề đường 3,55m, trục sau bên trái cách lề đường 2,6m. Tại hiện trường phát hiện 01 chiếc dép (đánh số 01), kích thước 24cm x 18cm, cách lề đường 73cm, cách trục sau bên trái của xe công nông là 3,05m; 01 chiếc dép kích thước 24cm x 18cm (đánh số 02), cách lề đường 20cm, cách trục sau bên trái xe công nông 3m, cách dép (1) 4,3m.

Căn cứ vào biên bản khám nghiệp hiện trường xác định điểm va chạm (X) nằm hoàn toàn trong lề đường bên phải so với hướng lưu thông của bà Kpă H’B1, phần đường dành cho người đi bộ.

Kết quả khám nghiệm phương tiện: xe công nông độ chế,không có biển số. Đầu máy DIAZEH, trọng lượng 175 kg, số hiệu PY140601, màu sơn đỏ. Tổng chiều dài của đầu kéo và rơ móc là 4,85m, trong đó phần rơ móc dài 3,65m. Khoảng cách giữa hai bánh trước là 96cm, bề rộng lốp trước 18cm. Khoảng cách giữa hai bánh sau 1,55m, bề rộng lốp sau 20cm. Đường kính lốp sau 75cm, đường kính lốp trước 59cm. Chiều rộng 1,6m, chiều dài thùng xe 1,95m. Chiều cao cách mặt đất 72cm, chiều sâu thùng xe 33cm. Cơ cấu máy loại kéo càng, hộp số có 04 số, gồm 02 tần số. Xe có hệ thống tay ga độ chế, dùng chân cáp nối từ tay ga đến máy để điều chỉnh tốc độ bằng tay.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 12/TT ngày 10/12/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Gia Lai kết luận nguyên nhân cái chết của bà Kpă H’B1 là chấn thương ngực kín tràn máu màng phổi, gẫy xương cung sườn 6 đến 9 bên trái.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người đại diện theo ủy quyền của người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định pháp Y nêu trên.

Đối với xe công nông độ chế, không có biển số, đầu máy DIAZEH, trọng lượng 175 kg, số hiệu PY140601, màu sơn đỏ mà bị cáo Ksor Th sử dụng gây ra tai nạn, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Nay H’Ô trình bày: xe công nông trên là của chị Nay H’Ô mua của ông Ksor G, bị cáo tự ý sử dụng gây ra tai nạn mà không nói cho chị Nay H’Ô hay ông Ksor G biết. Cơ quan CSĐT Công an huyện Krông Pa đã trả lại xe công nông độ chế, không có biển số, đầu máy DIAZEH, trọng lượng 175 kg, số hiệu PY140601, màu sơn đỏ cho chị Nay H’Ô.

Tại bản Cáo trạng số 17/CT-VKS, ngày 20 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pa truy tố bị cáo Ksor Th về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu.

Người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại anh Kpă Sưn có quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Ksor Th phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, đồng thời đề nghị HĐXX: áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của BLHS 2015: xử phạt bị cáo Ksor Tham từ 01 năm 04 tháng đến 01 năm 08 tháng tháng tù. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quan điểm bào chữa của trợ giúp viên pháp lý cho bị cáo Ksor Th đồng ý với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pa về tội danh, điều luật áp dụng và các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Trợ giúp viên đề nghị hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm điều 65 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Tham 01 năm 04 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành t tụng, người tiến hành t tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 11 giờ ngày 09/12/2018, bị cáo Ksor Th điều khiển công nông độ chế đến đoạn buôn Bầu (nay là buôn Chờ Tung), xã Ia H’Dreh, thì gặp một đàn bò đi ngược chiều, bị cáo Ksor Th điều khiển xe đánh lái sang sát lề đường bên phải để tránh va chạm với đàn bò thì tông vào bà Kpă H’B1 đi bộ cùng chiều bên phải, phần đường dành cho người đi bộ. Hậu quả bà H’B1 bị thương nặng và tử vong tại trung tâm y tế huyện Krông Pa.

Căn cứ vào kết quả khám nghiệm hiện trường, lời khai của bị cáo, người làm chứng cũng như các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án xác định điểm va chạm nằm hoàn toàn ở phần đường bên phải dành cho người đi bộ do đó lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo Ksor Tham.

Như vậy bị cáo Ksor Th điều khiển xe công nông độ chế cấm lưu thông, không có giấy phép lái xe, điều khiển xe đi không đúng phần đường quy định đã thực hiện sai quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ vi phạm khoản 9 Điều 8 và khoản 1 Điều 9 của Luật giao thông đường bộ nên trực tiếp gây thiệt hại về tính mạng cho bị hại bà Kpă H’B1, gây nên tổn thất lớn về tinh thần cho gia đình bị hại là vi phạm khoản 19 Điều 8 của Luật giao thông đường bộ. Hành vi phạm tội của bị cáo Ksor Th là nguy hiểm và đã gây hậu quả rất nghiêm trọng với lỗi cố ý gián tiếp, xâm phạm đến tính mạng con người và ảnh hưởng đến trật tự an toàn giao thông. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo Ksor Th hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, nhằm trừng trị, giáo dục nhưng cũng giúp cho bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung của bản cáo trạng, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, kết quả giám định pháp y về tử thi, lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng của vụ án đã thu thập được trong hồ sơ vụ án, HĐXX có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Ksor Th phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 của BLHS 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pa truy tố bị cáo về hành vi theo tội danh trên là đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[4] Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo Ksor Th điều khiển xe công nông độ chế khi không có giấy phép lái xe thuộc tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 của BLHS 2015, bị cáo Ksor Th không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở điểm a khoản 2 Điều 260 của BLHS 2015.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt:

Bị cáo Ksor Th là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi nguy hiểm và gây hậu quả xấu cho xã hội làm mất an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện. Nay cần xét đến nhân thân và các tình tiết tăng nặng cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo là điều cần thiết.

Bị cáo Ksor Th là người trực tiếp thực hiện hành vi, vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ gây ra tai nạn, với lỗi cố ý gián tiếp dẫn đến bà Kpă H’B1 tử vong nên bị cáo Ksor Th phải chịu toàn bộ trách nhiệm hình sự trong vụ án này. Tuy nhiên, bị cáo không có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã đến thăm viếng gia đình bị hại sau khi xảy ra tai nạn, hối hận về hành vi phạm tội của mình, bị cáo bồi thường thiệt hại đã gây ra cho gia đình bị hại, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của BLHS 2015 được áp dụng cho bị cáo.

Bên cạnh đó, người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của người bị hại anh Kpă S xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS 2015 được áp dụng cho bị cáo.

Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì HĐXX thấy bị cáo Ksor Th là người có nhân thân tốt, từ trước đến nay chưa có vi phạm pháp luật, bị cáo có từ 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS 2015, bị cáo Ksor Th có hoàn cảnh kinh tế khó khăn là hộ nghèo, bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng đặc biệt khó khăn nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, do đó trong trường hợp này bị cáo có đủ điều kiện áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo Điều 54 của BLHS 2015.

Xét lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa về điều luật áp dụng, các tình tiết giảm nhẹ, mức hình phạt là có căn cứ và phù hợp pháp luật nên HĐXX chấp nhận.

Xét quan điểm của trợ giúp viên pháp lý đề nghị HĐXX áp dụng thêm điều 65 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm 04 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, Hội đồng xét xử xét thấy chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và để phục vụ tốt cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn đang có chiều hướng phức tạp và ngày càng gia tăng. Trong đó có loại tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” đang có chiều hướng gia tăng và phức tạp. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù để cách ly bị cáo một thời gian, nhằm trừng trị, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Về vn đề liên quan khác: Đối với hành vi tự ý sử dụng xe công nông độ chế của bị cáo Ksor Th thì thấy rằng trong quá trình điều tra và tại phiên tòa giữa bị cáo Ksor Tham, chị Nay H’Ôk đều khai nhận, bị cáo Ksor Th và chị Nay H’Ô là vợ chồng, chị Nay H’Ô đã mua lại xe công nông độ chế, không có biển số, đầu máy DIAZEH, trọng lượng 175 kg, số hiệu PY140601, màu sơn đỏ của ông Ksor G, ngày xảy ra tai nạn, thấy xe để ở rẫy nhà ông Ksor G bị cáo đã tự ý lấy xe công nông đi chở rơm mà không nói ông Ksor G cũng như chị Nay H’Ô biết nên hành vi của bị cáo Ksor Th không cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Trên đường chở rơm về nhà, bị cáo gặp anh Nay B, anh Nay B nhờ bị cáo chở thêm rơm về nhà cho anh Nay B. Chị Nay H’Ô, ông Ksor G và anh Nay B không giao xe công nông độ chế cho bị cáo nên không có căn cứ xem xét trách nhiệm đối với những người này là đúng nên HĐXX không xem xét đến.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã gây thiệt hại về tính mạng cho người bị hại, các bên đã tự nguyện thỏa thuận bị cáo Ksor Th bồi thường cho những người đại diện hợp pháp của người bị hại bà Kpă H’B1 là 100.000.000 đồng. Đối với chiếc xe công nông độ chế, không có biển số, đầu máy DIAZEH, trọng lượng 175 kg, số hiệu PY140601, màu sơn đỏ là xe của chị Nay H’Ô mua lại của ông Ksor G. Bị cáo Ksor Th sử dụng gây ra tai nạn không bị hư hỏng, quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pa đã trả lại xe công nông độ chế trên cho chị Nay H’Ô. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và bị cáo không còn tranh chấp, yêu cầu và đề nghị gì khác nên HĐXX không đề cập đến.

[9] Về án phí: Buộc bị cáo Ksor Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Ksor Th phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

1. Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Ksor Th 01( một) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án;

2. Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án: Bị cáo Ksor Th phải chịu 200.000 đồng (Hai hăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (18/9/2019), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Nay H’Ô vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

400
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 23/2019/HS-ST ngày 18/09/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:23/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pa - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;