Bản án 23/2019/HNGĐ-ST ngày 21/06/2019 về yêu cầu ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BN ÁN 23/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2019 VỀ YÊU CẦU LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 21 tháng 6 năm 2019 tại Toà án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 96/2019/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2019 về việc: “Yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2019/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Bích M, sinh năm 1990

Đa chỉ: Hẻm 196 LTT, tổ 10, phường IK, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn Trường V, sinh năm 1991

Địa chỉ: 171 NT, tổ 01 (Trước đây là tổ 9), phường DH, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 26/02/2019, bản tự khai ngày 26/02/2019 và tại phiên toà, nguyên đơn chị Đặng Thị Bích M trình bày:

Chị và anh Phạm Văn Trường V kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường DH, thành phố P, tỉnh Gia Lai ngày 11/3/2014. Sau khi kết hôn, chị và anh V sinh sống tại 171 NT, tổ 09, phường DH, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Quá trình chung sống chị và anh V phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, tính cách không hòa hợp nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Bên cạnh đó, anh V sống thiếu trách nhiệm với gia đình, không chí thú làm ăn, không chăm lo cho con dẫn đến mâu thuẫn càng ngày càng trầm trọng nên chị đã về nhà cha mẹ đẻ sinh sống từ tháng 3/2018, chị và anh V sống ly thân từ thời điểm đó đến nay. Nay chị nhận thấy anh chị không còn tình cảm vợ chồng nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Phạm Văn Trường V.

Về con chung: Chị và anh Phạm Văn Trường V có 01 (Một) con chung là Phạm Hoàng Gia B, sinh ngày 04/7/2014. Cháu hiện đang sống với chị. Do cháu Phạm Hoàng Gia B còn nhỏ nên chị yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bản thân chị có khả năng về kinh tế để chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Phạm Hoàng Gia B nên chị không yêu cầu anh V phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Chị và anh Phạm Văn Trường V không có tài sản chung và nghĩa vụ chung phải thực hiện nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

Đối với bị đơn anh Phạm Văn Trường V:

Anh Phạm Văn Trường V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để anh V trình bày ý kiến về yêu cầu ly hôn, giải quyết vấn đề con chung của chị Đặng Thị Bích M nhưng anh Phạm Văn Trường V không đến Tòa án làm việc. Vì vậy Tòa án tiến hành các thủ tục tố tụng theo luật định để xét xử vắng mặt bị đơn.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P có ý kiến như sau:

Về trình tự, thủ tục tố tụng: Việc Tòa án thụ lý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của pháp luật về thụ lý vụ án, thẩm quyền giải quyết vụ án, thu thập chứng cứ, thông báo về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như trình tự phiên tòa. Đảm bảo thời hạn chuẩn bị xét xử. Nguyên đơn chị Đặng Thị Bích M chấp hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng. Đối với bị đơn anh Phạm Văn Trường V, việc chấp hành theo quy định của pháp luật tố tụng chưa bảo đảm.

Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Bích M về yêu cầu ly hôn với anh Phạm Văn Trường V và giao cháu Phạm Hoàng Gia B cho chị Đặng Thị Bích M chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị Đặng Thị Bích M phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Chị Đặng Thị Bích M và anh Phạm Văn Trường V kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không thuộc trường hợp cấm kết hôn, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường DH, thành phố P, tỉnh Gia Lai ngày 11/3/2014. Hôn nhân của chị M và anh V tuân thủ theo Điều 9,10,11 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 nên hôn nhân hợp pháp.

Do mâu thuẫn vợ chồng chị Đặng Thị Bích M yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Phạm Văn Trường V đồng thời giải quyết về vấn đề con chung, bị đơn anh Phạm Văn Trường V cư trú trên địa bàn thành phố P nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố P theo loại việc, theo lãnh thổ và theo cấp xét xử Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bị đơn anh Phạm Văn Trường V đã được Tòa án tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng của Tòa án để chị trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Bích M, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải đoàn tụ và hòa giải về hôn nhân, con chung và các vấn đề khác cũng như tham gia phiên tòa nhưng anh V vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Theo biên bản xác minh ngày 19/3/2019 thể hiện sau kết hôn anh chị chung sống tại 171 NT, tổ 01 (Trước đây là tổ 9), phường DH, thành phố P, tỉnh Gia Lai tuy nhiên hiện nay chị M và anh V đang sống ly thân.

Biên bản xác minh này phù hợp với lời khai của chị Đặng Thị Bích M: Giữa chị và anh Phạm Văn Trường V phát sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng dẫn đến chị đã dẫn con về nhà cha mẹ đẻ sinh sống từ tháng 3 năm 2018 và anh chị sống ly thân từ đó đến nay.

Như vậy trên thực tế quan hệ vợ chồng giữa chị M và anh V không thực hiện được vì anh chị hiện đã sống ly thân, không còn sự quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau do đó mục đích xây dựng hôn nhân hạnh phúc không đạt được.

Từ đó có cơ sở khẳng định hôn nhân giữa chị Đặng Thị Bích M và anh Phạm Văn Trường V phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Bích M, xử cho chị M được ly hôn với anh Phạm Văn Trường V.

Về con chung: Chị Đặng Thị Bích M và anh Phạm Văn Trường V có 01 (Một) con chung là Phạm Hoàng Gia B, sinh ngày 04/7/2014.

Chị Đặng Thị Bích M có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Cháu Phạm Hoàng Gia B còn nhỏ, hiện đang sống với chị M nên giao cho chị M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp. Vì vậy căn cứ theo quy định tại Điều 92 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, việc giao cháu Phạm Hoàng Gia B cho chị Đặng Thị Bích M trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn là chính đáng cần chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Đặng Thị Bích M đủ điều kiện kinh tế chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Phạm Hoàng Gia B nên không yêu cầu anh Phạm Văn Trường V cấp dưỡng nuôi con do đó Hội đồng xét xử không giải quyết.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Chị Đặng Thị Bích M không yêu cầu Tòa án giải quyết vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét trong cùng vụ án này.

Về án phí: Chị Đặng Thị Bích M phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 266; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, 10, 11, 92 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;

Áp dụng Điều 51, 53, 54, 56, 57, 81, 82, 83 84, 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 146, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Đặng Thị Bích M Chị Đặng Thị Bích M được ly hôn với anh Phạm Văn Trường V

2. Về con chung: Giao 01 (Một) con chung là cháu Phạm Hoàng Gia B, sinh ngày 04/7/2014 cho chị Đặng Thị Bích M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Chị Đặng Thị Bích M phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn)đồng nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp trước đây theo biên lai số 0001066 ngày 26/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn chị Đặng Thị Bích M được quyền làm đơn kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Riêng bị đơn anh Phạm Văn Trường V vắng mặt tại phiên toà có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án hoặc bản sao bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 23/2019/HNGĐ-ST ngày 21/06/2019 về yêu cầu ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:23/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;