Bản án 23/2019/DS-ST ngày 03/04/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHỤNG HIỆP, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 23/2019/DS-ST NGÀY 03/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong các ngày 28 tháng 03 và ngày 03 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 78/2018/TLST-DS, ngày 31 tháng 5 năm 2018 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2019/QĐXX-ST, ngày 18 tháng 02 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2019/QĐST-DS, ngày 11 tháng 03 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Trần Thị N Địa chỉ: ấp M, xã T, huyện P, tỉnh Hậu Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Trang Huỳnh M.

Đa chỉ: ấp M, xã T, huyện P, tỉnh Hậu Giang, là người được ủy quyền tham gia tố tụng theo văn bản ủy quyền lập ngày 31/5/2018. Có mặt.

2. Bị đơn: Đinh Thị Đ

Địa chỉ: ấp M, xã T, huyện P, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện và bản tự khai của nguyên đơn là bà Trần Thị N trình bày:

Vào năm 2017, nguyên đơn có cho bị đơn là Đinh Thị Đ vay số vàng là 13 chỉ vàng 24k, cụ thể vào ngày 20/02/2017 (âm lịch) là 05 chỉ vàng 24k, ngày 29/9/2017 (âm lịch) là 03 chỉ vàng 24k, ngày 30/10/2017 là 05 chỉ vàng 24k, thỏa thuận lãi suất là 05 chỉ vàng vào ngày 20/02/2017 là 500.000 đồng/ tháng, đối với khoản vay 03 chỉ vàng vào ngày 29/9/2017 là 300.000 đồng/tháng và 05 chỉ vàng vay vào ngày 30/10/2017 là 700.000 đồng/tháng. Các lần vay trên bị đơn điều ký vào biên nhận, thời hạn thanh toán là phía nguyên đơn có nhu cầu lấy số vàng lại thì phải báo trước cho bị đơn 01 tháng, từ khi vay đến nay bà Đinh Thị Đ đã đóng lãi cho nguyên đơn được 04 tháng với số tiền là 2.000.000 đồng.

Qua nhiều lần nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại số vàng trên thì bị đơn hứa và cam kết trả nợ nhưng không thực hiện và cố tình trốn tránh trách nhiệm của mình, nay nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn Đinh Thị Đ phải trả cho nguyên đơn số vàng là 13 chỉ vàng 24k.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ bà Đinh Thị Đ nhưng bà Đ vắng mặt nên không có lời trình bày.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phụng Hiệp tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm cho rằng: Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Tòa án, Hội đồng xét xử và các đương sự đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Về nội dung vụ án, đề nghị: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp hợp đồng vay tài sản, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp theo quy định tại Khoản 3, Điều 26; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Ti phiên toà, bị đơn là bà Đinh Thị Đồng đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn khởi kiện bị đơn đúng với địa chỉ bị đơn cư trú, đồng thời cũng đúng theo địa chỉ được ghi trong giao dịch hợp đồng (biên nhận vay tiền), nay bị đơn đã bỏ nơi cư trú mà không thông báo cho nguyên đơn biết về nơi cư trú thì được coi là bị đơn cố tình giấu địa chỉ. Theo hướng dẫn của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thì Tòa án tiến hành giải quyết vụ kiện theo thủ tục chung.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng: Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Trang Huỳnh M trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa trình bày như sau: Nguyên đơn là bà Trần Thị N có cho bị đơn là bà Đinh Thị Đ vay 03 lần tổng cộng là 13 chỉ vàng 24k, cụ thể: lần 1 vào ngày 20/02/2017 (âm lịch) vay 05 chỉ vàng 24k, lãi suất 500.000đ/tháng; lần 2 vào ngày 29/9/2017 (âm lịch) vay 03 chỉ vàng 24k, lãi suất 300.000đ/tháng; lần 3 vào ngày 30/10/2017 vay 05 chỉ vàng 24k, lãi suất 700.000đ/tháng. Các lần vay đều có làm biên nhận có chữ ký của bị đơn và không thỏa thuận thời hạn trả mà thỏa thuận khi nguyên đơn có nhu cầu lấy vàng lại thì phải báo trước cho bị đơn trước 01 tháng. Sau khi vay thì phía bị đơn đã đóng lãi cho nguyên đơn được 04 tháng với số tiền là 2.000.000 đồng. Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là 03 biên nhận lập ngày 20/02/2017 (âm lịch), ngày 29/9/2017 (âm lịch) và ngày 30/10/2017.

Từ khi thụ lý, bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng đến nay bị đơn cũng không có lời trình bày hoặc văn bản nào phản bác lại yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Từ đó đã có căn cứ chứng minh nội dung hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn và bị đơn như lời trình bày của đại diện nguyên đơn là có thật. Đại diện nguyên đơn trình bày từ khi vay, bị đơn đã trả cho nguyên đơn được 2.000.000 đồng tiền lãi, bị đơn vắng mặt nên không đưa ra được chứng cứ chứng minh đã đóng lãi cho nguyên đơn bao nhiêu. Do đó, cần chấp nhận theo sự thừa nhận của đại diện nguyên đơn, ghi nhận bị đơn đã đóng lãi cho nguyên đơn với số tiền là 2.000.000 đồng.

Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 9 của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng thì Ngân hàng Nhà nước là cơ quan thay mặt Chính phủ thống nhất quản lý các hoạt động kinh doanh vàng và cá nhân chỉ được thực hiện các hoạt động kinh doanh vàng sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép và được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép. Xét việc nguyên đơn cho bị đơn vay vàng khi chưa được cấp giấy phép là không đúng quy định pháp luật. Do đó, số lãi phát sinh mà bị đơn đã đóng cho nguyên đơn cần được khấu trừ vào vốn. Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn giao trả lại 13 chỉ vàng 24k và đồng ý khấu trừ số tiền 2.000.000đ bị đơn đã trả lãi cho nguyên đơn là phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Hi đồng xét xử căn cứ giá vàng tại thời điểm xét xử sơ thẩm là 3.500.000đ/chỉ để làm căn cứ xét xử và tính án phí.

Bị đơn đã đóng lãi cho nguyên đơn với số tiền là 2.000.000 đồng, tính đến thời điểm xét xử tương đương 05 phân 07 ly vàng 24k, khấu trừ vào số vốn 13 chỉ vàng 24k bị đơn phải trả cho nguyên đơn, còn lại bị đơn phải trả nguyên đơn 12 chỉ 04 phân 03 ly vàng 24k.

[5] Từ những phân tích trên, xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được Hội đồng xét xử chấp nhận, nên bị đơn phải nộp toàn bộ án phí là 5% giá ngạch giá trị tài sản tranh chấp.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 3 Điều 26; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Các Điều 91, 92, 144, 147 và điểm b Khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 463 và 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Tuyên xử:

Buộc bà Đinh Thị Đ phải trả cho bà Trần Thị N 12 (mười hai) chỉ 04 (bốn) phân 03 (ba) ly vàng 24k.

Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Đinh Thị Đ phải nộp 2.175.250đ (hai triệu một trăm bảy mươi lăm nghìn hai trăm năm mươi đồng). Bà Trần Thị N được nhận lại 1.137.500 đồng (một triệu một trăm ba mươi bảy nghìn năm trăm đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0016561 ngày 31/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thị hành án dân sự: thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

558
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 23/2019/DS-ST ngày 03/04/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:23/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phụng Hiệp - Hậu Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 03/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;