Bản án 23/2018/HSPT ngày 13/04/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 23/2018/HSPT NGÀY 13/04/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 13/4/2018 tại trụ sở, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 21/2018/TLPT- HS ngày 14 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo Nguyễn Văn B về tội “Cố ý gây thương tích”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án sơ thẩm số 02/2018/HS-ST ngày 26/01/2018 của Tòa án nhân dân huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

Họ và tên: Nguyễn Văn B - Sinh năm 1973; nơi cư trú: Thôn P, xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: Lớp 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn V1, con bà Nguyễn Thị D (đều đã chết); Có vợ Đỗ Thị M và 04 con; tiền án, tiền sự: Không; biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú;

Bị cáo không kháng cáo, có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo:

Chị Đỗ Thị M, sinh năm 1973; nơi cư trú: Thôn P, xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Làm ruộng là vợ của bị cáo. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo:

Ông Châu Thành N - Luật sư của Công ty Luật TNHH Nam Long thuộc đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Bị hại: Ông Nguyễn Thanh Ph1, sinh năm 1964; nơi cư trú: Thôn P, xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định. Có mặt.

-Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị hại:

Ông Tào Văn Đ, Luật sư công ty luật TNHH Tín Phát và cộng Sự - đoàn luật sư Hà Nội.

- Người làm chứng:

- Anh Đinh Văn Ph, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Ủy ban nhân dân xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định.

- Ông Đinh Văn Tr, sinh năm 1967.

Địa chỉ: Thôn L, xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định.

- Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1976.

- Ông Nguyễn Quốc V, sinh năm 1956.

- Ông Nguyễn Xuân B, sinh năm 1955.

- Ông Nguyễn Phan Đ, sinh năm 1959.

- Ông Lê Hồng Ch, sinh năm 1963.

Cùng địa chỉ: Thôn P, xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định.

Tại phiên tòa có mặt: anh C, ông V, ông B, ông Đ; vắng mặt: ông Tr , ông Ch, anh Ph.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 24/01/2017, ông Nguyễn Thanh Ph1 và một số người dân cùng trú tại thôn P, xã Y, huyện Y đến Ủy ban nhân dân xã Y, huyện Y với mục đích gặp bà Vũ Thị H là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã để giải quyết công việc nhưng không gặp được bà H nên đã vào phòng anh Đinh Văn Ph là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã uống nước nói chuyện. Anh Ph nói “các bác cứ bình tĩnh từng người phát biểu ý kiến, cháu sẽ ghi nhận, tiếp thu, có ý kiến nào trả lời được các bác cháu sẽ trả lời còn ý kiến nào vượt quá tầm của cháu thì cháu báo cáo đồng chí Chủ tịch trả lời các bác”. Ông Ph1 cầm tờ giấy nói “Tại sao 17 dòng họ chúng tôi đã nhất trí cho bà S chi 30.000.000đ trong đó có 1.500.000đ, sao bà H còn ra quyết định thu hồi”. Một lúc sau thì một số người đi ra ngoài, còn lại ông Ph1, ông L ngồi tiếp tục nói chuyện. Khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày Nguyễn Văn B đi xe mô tô đến dựng trước cửa phòng anh Ph rồi đi vào phòng nói “Chúng mày vào đây làm gì, nó ăn hối lộ tham ô 1.500.000đ chúng mày còn xuống nói chuyện cái gì”, anh Ph nói “Anh ngồi xuống để nói chuyện, không được to tiếng, chửi bới tại UBND xã”, ông Ph1 nói “Chú Ph ạ, anh đến đây để làm việc với người ký quyết định chứ không làm việc với chú”, nghe thấy ông Ph1 nói vậy, Nguyễn Văn B dùng tay phải cầm gạt tàn thuốc lá bằng sứ màu trắng, hình tròn trên bàn uống nước đập 01 cái vào mắt phải ông Ph1. Ông Ph1 bị thương được đưa đến Bệnh viên mắt tỉnh Ninh Bình điều trị từ ngày 24/01/2017 đến ngày 02/02/2017 thì ra viện.

Tại bản kết luận giám định số 48/17/TgT ngày 17/4/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Nam Định kết luận: Thị lực 2 mắt hiện tại do: Đục thủy tinh thể bắt đầu, thoái hóa võng mạc. Không phải do nguyên nhân chấn thương. Tính tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích lúc bệnh nhân xuất viện: Mắt phải 3/10, Mắt trái 10/10: 18%. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 18%. Cơ chế gây thương tích: Vật cứng tác động gây thương tích.

Tại Công văn số 05/17/CV ngày 25/4/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Nam Định nêu rõ: Tỷ lệ tổn thương lúc bệnh nhân xuất viện mắt phải 3/10, mắt trái: 10/10: 18% là tỷ lệ thương tích của mắt phải, mắt trái 10/10 là bình thường. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 18% là do: Mắt phải chấn thương đụng dập nhãn cầu xuất huyết tiền phòng, thị lực MP: 3/10. Khi vào viện mắt phải ST (-) (sáng tối âm tính), mắt trái bình thường. Khi ra viện: Mắt phải 3/10, Mắt trái: 10/10 (bình thường).

Vật chứng vụ án: Thu giữ 01 gạt tàn thuốc lá bằng sứ màu trắng, hình tròn, rỗng giữa, là tài sản của anh Ph quản lý, anh Ph không đề nghị trả lại.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Thanh Ph1 yêu cầu Nguyễn Văn B phải bồi thường tổng chi phí là 27.000.000đ.

Quá trình điều tra Nguyễn Văn B xuất trình hồ sơ bệnh án, sổ điều trị bệnh tâm thần. Ngày 24/4/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ý Yên quyết định trưng cầu Viện pháp y tâm thần Trung ương giám định tâm thần đối với Nguyễn Văn B. Tại kết luận giám định pháp y tâm thần số 289/KLGĐ, ngày 17/8/2017 của Viện pháp y tâm thần Trung ương kết luận: Trước, trong khi gây ra vụ việc dùng gạt tàn đánh ông Ph1 và tại thời điểm giám định đối tượng Nguyễn Văn B bị bệnh tâm thần phân liệt thể không biệt định. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F20.3. Tại thời điểm trên đối tượng Nguyễn Văn B hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Bản Cáo trạng số 67/Ctr - VKS.HS, ngày 30/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ý Yên truy tố bị cáo Nguyễn Văn B về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại Khoản 2 Điều 104 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (với tình tiết định khung quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Hình sự năm 1999).

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xác nhận bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định truy tố về tội “Cố ý gây thương tích” là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Về trách nhiệm dân sự bị cáo xin tự nguyên bồi thường toàn bộ số tiền là 27.000.000đ theo yêu cầu của bị hại.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2018/HS - ST ngày 26/01/2018 của Tòa án nhân dân huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định đã quyết định.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng Khoản 2 Điều 104; Điểm b, n, p Khoản 1 Điều 46; Điều 60 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Điểm b Khoản 1 Điều 2 Nghị Quyết số 41/2017/QH14; Khoản 3 Điều 7; Điểm đ Khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 24 (hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn B cho Ủy ban nhân dân xã Yên Thắng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

2. Trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 584, 585, 586, 590 của Bộ luật dân sự. Ghi nhận sự tự nguyện bồi thường thiệt hại của bị cáo cho bị hại số tiền là 27.000.000 (hai mươi bẩy triệu) đồng tại Biên lai thu tiền số AA/2010/0001269 ngày 17/11/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

Ngoài ra bản án còn tuyên xử lý vật chứng, tiền án phí phải nộp và quyền kháng cáo, kháng nghị.

Ngày 29/01/2018 ông Nguyễn Thanh Ph1 có đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét tăng thêm trách nhiệm dân sự đối với bị cáo, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn B.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Người bị hại ông Nguyễn Thanh Ph1 giữ nguyên quan điểm kháng cáo và xác định về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định đề nghị áp dụng đối với bị cáo là đúng. Các tình tiết giảm nhẹ ông Ph1 không thừa nhận bị cáo B bị bệnh tâm thần. Ông đề nghị:

- Về mức hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý nghiêm khắc, phạt ở mức cao nhất theo quy định của pháp luật; không cho bị cáo được hưởng án treo.

- Về bồi thường thiệt hại: Yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn B phải bồi thường cho ông số tiền như bản kê khai tiền thuốc điều trị và chi phí khác ngày 15/11/2017, ngoài ra ông còn yêu cầu bị cáo phải bồi thường khoản tiền thuốc điều trị tiếp từ khi ra viện đến nay, tiền thu nhập bị mất, tiền tổn thất tinh thần theo quy định của pháp luật. Tổng số tiền ông yêu cầu bị cáo B phải bồi thường là 141.000.000 (Một trăm bốn mốt triệu) đồng.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xác nhận bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định truy tố về tội “Cố ý gây thương tích” là đúng người, đúng tội, không oan. Về trách nhiệm dân sự bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ số tiền là 27.000.000đ theo yêu cầu của bị hại, nay người bị hại có những yêu cầu bồi thường thêm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Chị Đỗ Thị M có quan điểm mặc dù gia đình rất khó khăn về kinh tế nhưng chị đã cố gắng thu xếp nộp hết tiền bồi thường cho người bị hại để giảm bớt thiệt hại cho ông Ph1, nay ông Ph1 yêu cầu bồi thường tổng là 141.000.000 đồng là quá lớn, không đúng với thiệt hại mà chồng chị đã gây ra. Chị đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về hình phạt cho bị cáo B được cải tạo tại địa phương để gia đình có điều kiện chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh cho bị cáo, về trách nhiệm dân sự những khoản phải bồi thường thêm cho người bị hại đề nghị giải quyết theo pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát kết luận vụ án: Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 104; Điểm b, n, p Khoản 1 Điều 46; Điều 60 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Điểm b Khoản 1 Điều 2 Nghị Quyết số 41/2017/QH14; Khoản 3 Điều 7; Điểm đ Khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, là đúng người, đúng tội, mức hình phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo là phù hợp thể hiện tính khoan hồng nhân đạo của pháp luật. Kháng cáo đề nghị xem xét tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn B không có cơ sở để chấp nhận. Về trách nhiệm dân sự đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo B phải bồi thường tổn thất tinh thần cho người bị hại từ 5 đến 6 tháng lương cơ bản. Áp dụng điểm b khỏan 1 Điều 355, điểm b khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Thanh Ph1, sửa bản án sơ thẩm phần bồi thường dân sự.

* Luật sư bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với quan điểm giải quyết vụ án mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định đã phát biểu.Về trách nhiệm dân sự: ghi nhận sự tự nguyện bồi thường của bị cáo cho bị hại số tiền là 27.000.000đ. Về bồi thường tổn thất tinh thần cho người bị hại, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết.

* Luật sư bảo vệ người bị hại: Cho rằng bị cáo có nhân thân không tốt ở địa phương hay gây gổ chửi bới, đánh nhau với những người có quan điểm trái với bị cáo. Sau sự việc phạm tội xảy ra trong thời gian người bị hại nằm viện bị cáo và gia đình không hề thăm hỏi, có lời xin lỗi thể hiện sự ăn năn hối cải. Bản thân bị cáo theo lời khai của nhân chứng Nguyễn Phan Đ ở thôn P, xã Y năm 1994

Nguyễn Văn B đã bị xét xử về tội “cố ý gây thương tích” chưa thi hành án dân sự; Trong cuộc sống sinh hoạt bị cáo không có biểu hiện thần kinh nên tôi không nhất trí cấp sơ thẩm và đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi của mình” theo điểm n khoản 1 Điều 46 và “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS. Về việc năm 1994 B có bị xét xử, có tiền án hay không, đề nghị Hội đồng xét xử cho hoãn phiên tòa để xác minh làm rõ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Kháng cáo của người bị hại – ông Nguyễn Thanh Ph1 làm trong hạn luật định được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[1] Về tố tụng cấp sơ thẩm điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán – Hội đồng xét xử đã điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo đúng trình tự thủ tục tố tụng, việc xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không có oan, sai.

[2] Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được cấp sơ thẩm xét xử và những tài liệu chứng cứ mới được xem xét tại phiên toà phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Hành vi phạm tội của bị cáo đã được chứng minh bằng lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, các tài liệu về hiện trường, thương tích, kết quả giám định tỷ lệ thương tích của bị hại và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 24/01/2017 tại phòng làm việc của anh Đinh Văn Ph - Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định; bị cáo Nguyễn Văn B đã có hành vi dùng chiếc gạt tàn thuốc lá bằng sứ đập vào mắt phải ông Nguyễn Thanh Ph1 gây thương tích cho ông Ph1 với tỷ lệ thương tật là 18%.

[3] Cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung “dùng hung khí nguy hiểm” tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 2 Điều 104 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền là 27.000.000đ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định để bồi thường thiệt hại cho bị hại là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm b, n, p Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999, là hoàn toàn đúng.

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 104 của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì hành vi cố ý gây thương tích của bị cáo có khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù, nhưng theo quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì hành vi cố ý gây thương tích của bị cáo có khung hình phạt từ 02 năm đến 06 năm tù. Vì vậy, căn cứ Khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điểm b Khoản 1Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 để xem xét áp dụng trách nhiệm hình sự theo hướng có lợi cho bị cáo. Trên cơ sở các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, cấp sơ thẩm đã: Căn cứ Khoản 2 Điều 104; Điểm b, n, p Khoản 1 Điều 46; Điều 60 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Điểm b Khoản 1 Điều 2 Nghị Quyết số 41/2017/QH14; Khoản 3 Điều 7; Điểm đ Khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 24 (hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng, là có căn cứ.

[4] Kháng cáo đề nghị tăng nặng trách nhiệm hình sự không cho bị cáo B được hưởng án treo, với lý do bị cáo năm 1994 đã bị xét xử về tội “cố ý gây thương tích”; Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra xác minh thu thập chứng cứ nhưng không có bất cứ tài liệu nào chứng minh B đã bị xét xử về tội danh trên năm 1994; Mặt khác trong quá trình xét xử tại hai cấp sơ thẩm, phúc thẩm người bị hại, luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị hại, nhân chứng Nguyễn Phan Đ cũng không đưa ra được tài liệu chứng cứ để chứng minh bị cáo đã bị xét xử. Theo quy định tại Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo không có tội. Căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử sơ thẩm xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng; vì vậy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà để bị cáo được cải tạo tại địa phương, dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng đảm bảo việc cải tạo, giáo dục và đấu tranh phòng ngừa tội phạm là hoàn toàn có căn cứ. Kháng cáo của ông Nguyễn Thanh Ph1, đề nghị tăng nặng trách nhiệm hình sự, không cho bị cáo B được hưởng án treo không được chấp nhận.

[5] Trách nhiệm dân sự: Tại cấp phúc thẩm người bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường với tổng số tiền là 141.000.000 (một trăm bốn mốt triệu) nhưng lại không có tài liệu, chứng cứ hợp pháp để chứng minh cho yêu cầu bồi thường trên. Xét theo đề nghị ngày 15/11/2017 của người bị hại đã kê tương đối đầy đủ các khoản bồi thường: Từ tiền thuốc, tiền chi phí đi lại phục vụ, tiền vệ sinh cá nhân trong thời gian điều trị tại viện mắt Ninh Bình, tiền giường bệnh, tiền ăn uống, tiền nhập viện, tiền công người chăm sóc, tiền thu nhập bị mất trong thời gian nằm viện, tiền mua thuốc ngoài thêm, chỉ còn khoản tổn thất tinh thần cho người bị hại chưa được cấp sơ thẩm xem xét sẽ được cấp phúc thẩm xét. Hội đồng xét xử thấy: Cần ghi nhận số tiền bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho người bị hại là 27.000.000 đồng đã nộp tại Biên lai thu tiền số AA/2010/0001269, ngày 17/11/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Ngoài ra về Tổn thất tinh thần người bị hại bị tổn thương do thương tích gây ra 18%, thời gian nằm viện 09 ngày, cần buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại tổn thất tinh thần bằng 06 tháng lương cơ bản: 06 tháng x 1.300.000 = 7.800.000 đồng. Kháng cáo yêu cầu tăng trách nhiệm dân sự đối với bị cáo của người bị hại được chấp nhận một phần

Do kháng cáo của người bị hại được chấp nhận một phần bồi thường nên bị cáo B phải nộp tiền án phí dân sự khoản tiền phải bồi thường thêm cho người bị hại.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm b khoản 2 Điều 357 Bộ luật hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

Sửa bản án sơ thẩm

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ Khoản 2 Điều 104; Điểm b, n, p Khoản 1 Điều 46; Điều 60 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Điểm b Khoản 1 Điều 2 Nghị Quyết số 41/2017/QH14; Khoản 3 Điều 7; Điểm đ Khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 24 (hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Nguyễn Văn B cho Ủy ban nhân dân xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

2. Trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 584, 585, 586, 590 của Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn B phải bồi thường cho ông Nguyễn Thanh Ph1 34.800.00 (ba tư triệu tám trăm nghìn) đồng, được đối trừ số tiền bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại là 27.000.000 (hai mươi bẩy triệu) đồng tại

Biên lai thu tiền số AA/2010/0001269 ngày 17/11/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, bị cáo còn phải bồi thường tiếp 7.800.000(bảy triệu tám trăm nghìn) đồng.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng. Án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 1.350.000 (một triệu ba trăm năm mươi nghìn) đồng. Án phí dân sự phúc thẩm bị cáo phải nộp là 390.000 (ba trăm chín mươi nghìn) đồng.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

345
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 23/2018/HSPT ngày 13/04/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:23/2018/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;