Bản án 23/2018/HNGĐ ngày 20/09/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 23/2018/HNGĐ NGÀY 20/09/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 20 tháng 9 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 156/2018/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Văn Đ, sinh năm 1983. Có mặt.

HKTT, chỗ ở: Hiền Lương, Phù Lương, Quế Võ, Bắc Ninh.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H. Sinh năm 1985. Có mặt.

HKTT: Hiền Lương, Phù Lương, Quế Võ, Bắc Ninh.

Tạm trú: Thôn 10, Xóm Tự, Hương Mạc, Lạng Giang, Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nguyên đơn là anh Trần Văn D trình bày tại biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa: Tôi kết hôn với chị H từ 28/11/2006, trên cơ sở tự nguyện, tuân thủ các quy định của pháp luật, đăng ký kết hôn ở UBND xã Phù Lương, Quế Võ, Bắc Ninh. Sau khi cưới vợ chồng thuê nhà ở trọ ở trên TP. Bắc Ninh sống và làm ăn trên đó. Đến khoảng năm 2012 thì vợ chồng về chung sống trên đất của gia đình nhà tôi ở Hiền Lương, Phù Lương, Quế Võ, nhưng vợ chồng làm ăn kinh tế riêng. Vợ chồng chung sống với nhau đến tháng 11 năm 2016 thì mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do chị H tham gia vào hội thánh đức chúa trời, gia đình nhà tôi không nhất trí, nên bố tôi đã đuổi chị H đi. Từ tháng 11/2016 đến nay vợ chồng ly thân, khoảng 2 đến 3 tháng đầu vợ chồng tôi thỉnh thoảng vẫn gặp nhau, sau đó không gặp nhau nữa. Từ đó hai bên không có biện pháp nào để đoàn tụ nữa. Nay tôi xác định vợ chồng không còn tình cảm, không thể đoàn tụ được nữa, nên giữ nguyên yêu cầu ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng tôi có 02 con là: Trần Văn Quyết, sinh ngày 13/11/2007 và Trần Văn Thắng, sinh ngày 07/3/2011. Hiện hai cháu đang ở với tôi. Ly hôn tôi yêu cầu được nuôi cả hai con, và không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con, còn tùy chị H. Hiện tôi vẫn đang làm việc tại Công ty TNHH cơ khí Như Nguyệt ở KCN Võ Cường, TP. Bắc Ninh. Thu nhập bình quân hơn 8.000.000đ/ tháng, nên có đủ điều kiện để nuôi hai con.

Về tài sản chung, công nợ và công sức vợ chồng tôi tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra tôi không trình bày và yêu cầu gì khác.

Theo bị đơn là chị H trình bày tại biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa:

Tôi kết hôn với anh D từ ngày 28/11/2006, trên cơ sở tự nguyện, tuân thủ các quy định của pháp luật, đăng ký kết hôn ở UBND xã Phù Lương, Quế Võ, Bắc Ninh. Sau khi cưới vợ chồng thuê nhà ở trọ tại Bồ Sơn, Võ Cường, TP. Bắc Ninh. Sau gần một năm thì lại thuê trọ tại chợ Yên, Yên Mẫn, Kinh Bắc, Bắc Ninh. Đến khoảng năm 2012 thì vợ chồng về chung sống trên đất của gia đình nhà chồng ở Hiền Lương, Phù Lương, nhưng vợ chồng ăn riêng. Vợ chồng chung sống với nhau đến tháng 11 năm 2016 thì mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tôi tham gia vào hội thánh đức chúa trời, gia đình nhà chồng không nhất trí, nên bố chồng tôi đã đuổi tôi đi. Từ đó (tháng 11/2016) đến nay vợ chồng ly thân, khoảng 2 đến 3 tháng đầu vợ chồng tôi thỉnh thoảng vẫn gặp nhau, sau đó không gặp nhau nữa, tôi gọi điện, nhắn tin chồng tôi cũng không nghe, không trả lời. Từ đó hai bên không có biện pháp nào để đoàn tụ nữa. Nay chồng tôi làm đơn xin ly hôn tôi, quan điểm của tôi là vẫn mong muốn vợ chồng về đoàn tụ. Nhưng sau khi tôi về biết anh D đã có quan hệ với người phụ nữ khác được khoảng một năm nay, nên tôi cũng nhất trí đề nghị Tòa án huyện Quế Võ giải quyết ly hôn cho chúng tôi, vì xác định vợ chồng không còn tình cảm, không thể đoàn tụ được nữa.

Về con chung: Vợ chồng tôi có 02 con là: Trần Văn Quyết, sinh ngày 13/11/2007 và Trần Văn Thắng, sinh ngày 07/3/2011. Hiện hai con tôi đang ở với bố là anh D. Ly hôn tôi yêu cầu được nuôi cả hai con và không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con. Còn nếu được nuôi một con thì tôi xin nuôi cháu Thắng. Về cấp dưỡng nuôi con tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hiện tôi không theo Hội thánh đức chúa trời nữa. Tôi đã đăng ký tạm trú ở nhà bố mẹ đẻ tôi tại Thôn 10, Xóm Tự, Hương Mạc, Lạng Giang, Bắc Giang. Tôi đang làm việc tại Công ty TNHH XNK TM Kim Trung ở A4BT1A Bùi Xuân Phái, Mỹ Đình, Nam Từ Liêm, Hà Nội. Thu nhập bình quân hơn 5.000.000đ/ tháng, nên có đủ điều kiện nuôi con. Sau khi ly hôn và tôi được nuôi con, tôi sẽ chuyển về làm ở gần nhà để có điều kiện chăm sóc con tốt hơn.

Về tài sản chung, công nợ và công sức vợ chồng tôi tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra tôi không trình bày và yêu cầu gì khác.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án. Tất cả đều đã đảm bảo tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị HĐXX xem xét, quyết định công nhận thuận tình ly hôn giữa anh D và chị H. Giao hai con chung là cháu Trần Văn Quyết, sinh ngày 13/11/2007, và cháu Trần Văn Thắng, sinh ngày 07/3/2011 cho anh D trực tiếp nuôi. Về cấp dưỡng nuôi con các đương sự không yêu cầu nên không đề cập giải quyết. Chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con sau ly hôn mà không ai được cản trở.

Về án phí: Anh D phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Anh D kết hôn với chị H ngày 28/11/2006, trên cơ sở tự nguyện, tuân thủ các quy định của pháp luật, đăng ký kết hôn ở UBND xã Phù Lương, Quế Võ, Bắc Ninh. Nên xác định đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi cưới vợ chồng thuê nhà ở riêng tại TP. Bắc Ninh, đến năm 2012 thì về chung sống cùng gia đình nhà anh D ở Phù Lương. Theo anh D và chị H thì vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 11/2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do chị H tham gia vào hội thánh đức chúa trời, gia đình nhà anh D không nhất trí, nên bố anh D đã đuổi chị H đi. Từ tháng 11/2016 đến nay vợ chồng ly thân, khoảng 2 đến 3 tháng đầu vợ chồng thỉnh thoảng vẫn gặp nhau, sau đó không gặp nhau nữa. Chị H có gọi điện, nhắn tin cho anh D, nhưng anh D không nghe, không trả lời. Từ đó hai bên cắt đứt mọi quan hệ, và đều không có biện pháp nào để đoàn tụ nữa. Nay anh D làm đơn xin ly hôn, mới đầu quan điểm của chị H là vẫn mong muốn vợ chồng về đoàn tụ. Nhưng sau khi chị H biết anh D đã có quan hệ với người phụ nữ khác được khoảng một năm nay, nên chị H cũng nhất trí, đề nghị Tòa án huyện Quế Võ giải quyết ly hôn cho vợ chồng, vì xác định vợ chồng không còn tình cảm, không thể đoàn tụ được nữa. Xét sự thuận tình ly hôn này là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với pháp luật và thực tế, nên được chấp nhận.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con là: Trần Văn Quyết, sinh ngày 13/11/2007 và Trần Văn Thắng, sinh ngày 07/3/2011. Hiện hai cháu đang ở với bố là anh D. Ly hôn anh D yêu cầu được nuôi cả hai con, và không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Chị H cũng yêu cầu được nuôi cả hai con, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con. Nếu anh D không nhất trí thì chị xin được nuôi một con là cháu nhỏ Trần Văn Thắng. Còn cháu lớn Trần Văn Quyết để cho anh D nuôi. Về cấp dưỡng nuôi con chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có hỏi ý kiến của các con anh D, chị H để xem xét nguyện vọng của các cháu khi bố mẹ ly hôn thì muốn ở với ai. Các con anh D, chị H đều có nguyện vọng nếu bố mẹ ly hôn thì các cháu muốn ở với bố.

Hội đồng xét xử xét thấy việc nuôi con sau ly hôn là quyền và nghĩa vụ của bố mẹ. Anh D và chị H đều có nguyện vọng nuôi con, đều có đủ điều kiện nuôi con. Anh D hiện sống cùng bố mẹ ở Phù Lương, Hiền Lương, Quế Võ, Bắc Ninh. Hiện anh D đang làm việc tại Công ty TNHH cơ khí Như Nguyệt ở KCN Võ Cường, TP. Bắc Ninh. Thu nhập bình quân hơn 8.000.000đ/tháng. Chị H sau khi vợ chồng ly thân nay đã về nhà bố mẹ chị ở thôn 10, xóm Tự, Hương Lạc, Lạng Giang, Bắc Giang. Chị H có đăng ký tạm trú ở đó. Hiện chị H đang làm việc tại Công ty TNHH XNK TM Kim Trung ở A4BT1A Bùi Xuân Phái, Mỹ Đình, Nam Từ Liêm, Hà Nội. Thu nhập bình quân hơn 5.000.000đ/ tháng.

HĐXX xét thấy cả anh D và chị H đều có đủ điều kiện nuôi con. Ngoài ra áp dụng đường lối ưu tiên bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong quá trình giải quyết vụ án. Nên cần chấp nhận yêu cầu của chị H, giao cháu Trần Văn Thắng cho chị H trực tiếp nuôi. Giao cháu Trần Văn Quyết cho anh D trực tiếp nuôi. Về cấp dưỡng nuôi con các đương sự không yêu cầu, nên HĐXX không đề cập giải quyết. Anh D, chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau ly hôn mà không ai được cản trở.

Về án phí LHST: Anh D phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 55, 58, 81, 82, 83 - Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 235, 147- Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Trần Văn D và chị Nguyễn Thị H. Giao con chung là cháu Trần Văn Quyết, sinh ngày 13/11/2007 cho anh D trực tiếp nuôi. Giao con chung là cháu Trần Văn Thắng, sinh ngày 07/3/2011 cho chị H trực tiếp nuôi, kể từ tháng 10 năm 2018 đến khi con tròn 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con các đương sự không yêu cầu. Anh D, chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau ly hôn mà không ai được cản trở.

Về án phí: Anh D phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận anh D đã nộp 300.000đ tạm ứng án phí LHST tại biên lai số: 02587 ngày 26/3/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 23/2018/HNGĐ ngày 20/09/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:23/2018/HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;