Bản án 23/2017/HSST ngày 08/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 23/2017/HSST NGÀY 08/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tàa án nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 19/2017/HSST ngày 10 tháng 10 năm 2017, đôi vơi bi cao:

* Phan Quốc T, sinh năm 1993; Nơi sinh: huyện HN, tỉnh Đồng Tháp; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp 1, xã TTH B, huyện HN, tỉnh Đồng Tháp; Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Con ông Phan Ngọc H, sinh năm 1947 (chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1961; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con lớn trong gia đình; Tiền án: Không; Tiền sự: Vào ngày 08/5/2017, bị Công an xã Thường Thới Tiền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản với số tiền 1.500.000 đồng (đã nộp xong); Tạm giữ, tạm giam: Không; Áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

1/ Đoàn Văn S, sinh năm 1979; Nơi cư trú: ấp 1, xã TTH B, huyện HN, tỉnh Đồng Tháp. (Vắng mặt)

2/ Trần Văn B, sinh năm 1973; Nơi cư trú: ấp 6, xã TTH B, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. (Vắng mặt)

NHẬN THẤY

Bị cáo Phan Quốc T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Hồng Ngự truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Ngày 08/5/2017, Phan Quốc T bị Công an xã Thường Thới Tiền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản với số tiền 1.500.000 đồng.

Đến khoảng 16 giờ 30 phút ngày 20/6/2017, Phan Quốc T phát hiện con gà trống của anh Đoàn Văn S ở ấp 1, xã TTH B, huyện HN, không người trông coi nên T lén lút bắt trộm con gà mang về nhà. Đến ngày 21/6/2017, T đem con gà trộm được bán cho anh Nguyễn Văn S giá 400.000 đồng. Ngày 22/6/2017, anh S phát hiện con gà trống bị mất nên đến Công an xã Thường Thới Hậu B trình báo.

Tiếp tục đến khoảng 03 giờ ngày 21/7/2017, trên đường Phan Quốc T đi siệt cá, khi đi đến ao nuôi cá của anh Trần Văn B tại ấp BHH, xã TTH B, huyện HN, thấy cá trong ao bị chết và không ai trông coi nên T xuống vớt cá gồm 01 con cá nàng hai khoảng 1,7kg, 01 con cá chép vàng khoảng 1,1kg và khoảng 20kg cá rô phi. T để cá vào trong bao và mang về nhà, nhờ bà Nguyễn Thị H (mẹ T) bán dùm được 240.000 đồng. Anh B phát hiện lượng cá trong ao nuôi bị mất nên đến Công an xã Thường Thới Hậu B trình báo sự việc.

Vật chứng thu giữ: 01 con gà trống lông màu đỏ có trọng lượng 2,7kg; tiền Việt Nam 240.000 đồng.

Biên bản và kết luận định giá tài sản số 05 ngày 13/7/2017 kết luận: 01 con gà trống lông màu đỏ có trọng lượng 2,7kg, giá trị 324.000 đồng.

Biên bản và kết luận định giá tài sản số 06 ngày 18/8/2017 kết luận: 01 con cá nàng hai nặng 1,7kg, giá trị 68.000 đồng; 01 con cá chép vàng nặng 1,1kg, giá trị 44.000 đồng; 20kg cá rô phi giá trị 200.000 đồng. Tổng số là 312.000 đồng.

Đối với vật chứng trên quá trình điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng và trao trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bị hại Đoàn Văn S và Trần Văn B xong, các bị hại không yêu cầu T bồi thường các khoản nào khác.

Tại bản cáo trạng số: 20/CT-VKS ngày 10 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sat nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp đa truy tố bị cáo Phan Quốc T pham tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phan Quốc T pham tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự với mức hình phạt từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Về dân sự: Đã giải quyết xong nên không đề cập đến. Về vật chứng: Đã giải quyết xong nên không đề cập đến.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đa đươc thâm tra tai phiên toa; căn cư vao kêt qua tranh luân tai phiên toa trên cơ sơ xem xet đây đu, toan diên chưng cư, y kiên cua Kiêm sat viên, bi cao và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Lời khai nhận tội của bị cáo Phan Quốc T tại phiên toà hôm nay phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, với nội dung của cáo trạng, lời khai của người bị hại, người làm chứng và còn được chứng minh bởi các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án được đánh giá tại phiên tòa hôm nay như: biên bản hoạt động điều tra, biên bản ghi lời khai, biên bản thu hồi tang vật... Có thể thấy rằng chỉ vì muốn có tiền để tiêu xài không cần phải lao động nên bị cáo đã nảy sinh ý định lén lút đi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật, cụ thể: bị cáo lợi dụng sự mất cảnh giác của người bị hại nên đã thực hiện việc lén lút lấy trộm của anh Đoàn Văn S 01 con gà trống trọng lượng 2,7kg, qua định giá là 324.000 đồng và trộm cá của anh Trần Văn B qua định giá là 312.000 đồng vì vậy lời nhận tội của bị cáo là có căn cứ, tuy tài sản bị cáo chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng nhưng bị cáo đã bị xử lý hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” chưa hết thời hạn mà lại tiếp tục phạm tội, vì vậy hành vi của bị cáo Phan Quốc T đã có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Như vậy, với các tình tiết, chứng cứ của vụ án đã được chứng minh ở trên, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phan Quốc T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự. Cho nên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2009), như sau:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đọat hoặc đã bị kết án về tội chiếm đọat tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.

Tội phạm mà bị cáo gây ra đã xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác, mặt khác còn làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương, làm cho nhân dân hoang mang lo sợ, thiếu an tâm sản xuất. Bản thân bị cáo có sức khỏe, đáng ra bị cáo phải tìm cho mình một việc phù hợp, sống bằng chính nguồn thu nhập hợp pháp của mình, nhưng bị cáo không làm được điều đó, với bản chất lười biếng lao động, lại muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà bị cáo dễ dàng dẫn đến con đường phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự bất chấp, xem thường pháp luật. Do đó, cần xử phạt bị cáo một cách nghiêm khắc để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

Xét về nhân thân của bị cáo là thành phần nhân dân lao động, chưa có tiền án; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo thật thà khai báo thể hiện sự ăn năn hối cải, trước phiên tòa xin giảm nhẹ hình phạt. Xét tính chất, mức độ, ý thức và hậu quả phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để có điều kiện răn đe, giáo dục, giúp bị cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung cho những ai có tư tưởng như bị cáo. Vì vậy, áp dụng điểm h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo lúc lượng hình, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Đối với Nguyễn Văn S và Nguyễn Thị H là người mua gà và bán cá dùm cho T về mặt ý thức không biết là tài sản do người khác phạm tội mà có nên không đề cập đến trách nhiệm hình sự.

* Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trao trả lại vật chứng cho người bị hại xong, các bị hại không yêu cầu T bồi thường các khoản nào khác, nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

* Về vật chứng: Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trao trả lại vật chứng cho người bị hại xong, nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

- Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để buộc bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phan Quốc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999.

Xử phạt bị cáo Phan Quốc T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

* Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phan Quốc T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên an. Riêng người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án tại địa phương.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án được thực hiện theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 23/2017/HSST ngày 08/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:23/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hồng Ngự - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;