Bản án 231/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 231/2018/HS-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 234/2018/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 234/2018/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Lâm L, sinh ngày 23 tháng 10 năm 1987, tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 12 P, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ở: Số 262, đường B, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp : Không; trình độ văn hoa : Lớp 10/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm T và bà Cao T (Thanh); có chồng là Nguyễn T và 01 con sinh năm 2005; tiền án: 01 về hành vi mua bán trái phép chất ma túy (tại Bản án số 52/2012/HSST ngày 19/4/2012 của Tòa án nhân dân thành phố L); tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 15/10/2018 đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Vũ Đ, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Bị hại: Ông Liễu T. Địa chỉ: Khối Đ, phường C, thành phố L, tỉnh LạngSơn. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Nguyễn H. Địa chỉ: Thị trấn C, Hện C, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

2. Bà Cao T (Thanh). Địa chỉ: Số 99, đường H, khối H, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Lâm T. Có mặt.

2. Anh Hà H. Vắng mặt.

3. Anh Nguyễn T. Có mặt.

4. Chị Nông A. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 01/8/2018, Lâm L cùng mẹ đẻ là bà Cao T đi xe đạp điện đến nhà ông Liễu T để thuê xe ô tô tự lái. Khi đến nơi hai bên mới nhận ra là đã quen nhau từ trước. Hai bên Lâm L và ông Liễu T thỏa thuận cho thuê xe ôtô trong 03 ngày từ 01/8/2018 đến 03/8/2018, để đi lễ tại Sapa - Lào Cai với giá thuê xe 700.000 đồng/ngày. Sau khi thỏa thuận xong, ông Liễu T giao cho Lâm L chìa khóa và xe ô tô nhãn hiệu Innova G màu ghi vàng biển kiểm soát 12A- XXX.XX cùng toàn bộ giấy tờ xe. Sau khi nhận xe ô tô Lâm L bảo bà Cao T đi xe đạp điện về trước để chuẩn bị lễ, còn L gọi điện cho Hà H đến để lái xe (do L không biết lái xe) và Nông A đến để đi lễ cùng.

Một lúc sau thì Hà H và Nông A cùng đi taxi đến, Lâm L giao xe cho H điều khiển về nhà để sắp lễ đi Lào Cai. Trên đường đi lễ do có việc gấp Lâm L, Hà H, Nông A không đi lễ nữa mà đi đến một số nơi để giải quyết việc riêng của L. Đến 17 giờ cùng ngày, L gọi cho chị Nguyễn H nói cho L để nhờ một chiếc xe ô tô, sau đó L bảo H, A về trước và đưa xe ô tô đến để ở nhà chị H còn L sẽ tự về sau. Đến 21 giờ cùng ngày do cần tiền để trả nợ nên L một mình đến nhà chị H nói cho L đặt xe ô tô biển kiểm soát 12A-XXX.XX để vay 200.000.000 đồng và để lại toàn bộ giấy tờ xe ô tô, khi đặt xe vay tiền L không nói rõ nguồn gốc xe nên được chị H đồng ý. Sau khi nhận tiền, L trả nợ cá nhân và một mình tiêu sài hết số tiền trên.

Ngày 03/8/2018 đến hạn trả xe, L chưa có tiền để lấy xe ra nên đưa cho bà T 2.100.000 đồng nhờ mang đến nhà ông T trả tiền thuê xe trong 03 ngày như đã thỏa thuận. Do L chưa trả xe, ông T liên lạc với L nhưng không được. Ngày 04/8/2018 ông T đến nhà ông Lâm T bố đẻ của L tìm gặp L, lúc này L nói với ông T là “đã mang chiếc xe đi cầm cố để vay tiền, ông T cho L thêm thời gian để L lấy xe ra trả ông T coi như vẫn đang thuê xe”. Ông T không đồng ý việc L mang xe đi cầm cố nhưng cũng không thể yêu cầu L trả xe ngay và ông T có quen biết bố mẹ L nên ông T cho L thời hạn đến cuối tháng để lấy xe ra trả.

Sau khi được ông T gia hạn như trên L không tìm cách lấy xe ô tô đã cầm cố để về trả cho ông T, mà đến ngày 09/8/2018 L lại tiếp tục đến tìm chị H để mượn thêm 300.000.000 đồng, sau khi có được tiền L dùng để trả nợ cá nhân và tiêu sài hết. Để ông T không phát hiện và tố cáo hành vi của mình L nhờ người quen đến trả tiền cho ông T, cụ thể: Nhờ H 02 lần mỗi lần 2.000.000 đồng; Bà T 01 lần 2.000.000 đồng; ông T 01 lần 5.000.000 đồng; anh T 01 lần 10.000.000 đồng. Tổng số tiền L trả cho ông T khoảng 21.000.000 đồng, mỗi lần nhận tiền ông T đều yêu cầu những người này bảo L trả lại chiếc xe cho ông, đến ngày 30/8/2018 L không trả được xe, ông T viết đơn trình báo sự việc đến Công an thành phố L.

Biên bản định giá tài sản số 150/ĐGTSTT ngày 05/9/2018, của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự, xác định trị giá xe ô tô nhãn hiệu Innova G màu ghi vàng biển kiểm soát 12A-XXX.XX là 217.000.000 đồng (hai trăm mười bảy triệu đồng)

Cáo trạng số 225/QĐ-VKSTPLS ngày 12 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố bị cáo Lâm L về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, theo quy định tại khoản 3 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lâm L thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lâm L phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Áp dụng khoản 3 Điều 175; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 05 đến 06 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung vì qua xác minh bị cáo không có tài sản để đảm bảo thi hành án. Về xử lý vật chứng xác nhận Cơ quan điều tra đã trả lại xe ô tô và toàn bộ giấy tờ cho ông T. Chị H không yêu cầu trả tiền nên không đề nghị xem xét. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Lời bào chữa của luật sư: Theo thỏa thuận miệng giữa bị cáo và ông Liễu T thuê xe trong 03 ngày từ 01 - 03/8/2018. Sau đó đến ngày 04/8/2018 giữa bị cáo và ông T lại thỏa thuận tiếp cho thuê xe đến cuối tháng 8/2018, bị cáo đã thực hiện thỏa thuận đó là cách vài ngày lại nhờ người quen đến thanh toán tiền xe cho ông T. Như vậy, bị cáo L không có hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản. Ngày 30/8/2018 ông T có đơn tố cáo L do đó người vi phạm hợp đồng là ông T. Theo lời khai của anh T (chồng bị cáo) ngày 30/8/2018 đến trả tiền chị H để lấy xe ô tô ra thì mới biết xe đã bị Công an giữ, như vậy là L có khả năng trả lại tài sản ô tô cho ông T. Vì vậy hành vi của bị cáo L không cấu thành tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Nếu Hội đồng xét xử không chấp nhận mà vẫn tuyên L phạm tội, thì đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét các tình tiết giảm nhẹ mà đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị và các tình tiết khác của vụ án, để áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới khung.

Đối đáp của Kiểm sát viên: Bị cáo bằng hình thức hợp đồng mượn xe để đi lễ nhưng sau khi mượn được xe bị cáo nảy sinh ý định mang đi cầm cố lấy tiền về tiêu sài và trả nợ là đã có ý thức chiếm đoạt tài sản nên tội phạm đã hoàn thành, Vì: Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, sau khi mượn được xe bằng hình thức hợp đồng đã có hành vi gian dối với chủ sở hữu là mang chiếc xe đi cầm cố, có hành vi gian dối với người nhận cầm cố là không nói rõ nguồn gốc xe. Bị cáo đi đặt xe ô tô để mượn tiền nhưng xe không phải của mình nên đây là hành vi trái pháp luật và với thu nhập khoảng 9.000.000 đồng/tháng, bị cáo đã thấy trước được hậu quả là không thể lấy lại được xe ô tô nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là với lỗi cố ý. Hành vi chiếm đoạt của bị cáo đã hoàn thành từ khi đi đặt xe lấy tiền, tài sản bị chiếm đoạt có giá trị 217.000.000 đồng. Thỏa thuận tiếp theo với ông T mượn xe đến cuối tháng là vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự, vì đối tượng của thỏa thuận này là không có (xe ô tô đã bị cầm cố), vì vậy thỏa thuận này không thể thực hiện được. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, việc truy tố bị cáo là không oan. Đối với đề nghị cho bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới khung là không có căn cứ, vì: Bị cáo chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51, trong khi bị cáo lại có 01 tình tiết tăng nặng tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự nên không đủ điều kiện được áp dụng hình phạt dưới khung theo quy định tại khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với biên bản định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 11 giờ ngày 01/8/2018, Lâm L thuê xe ô tô nhãn hiệu Innova G màu ghi vàng biển kiểm soát 12A-XXX.XX trị giá 217.000.000 đồng của ông Liễu T trong 03 (ba) ngày để đi Sapa - Lào Cai. Do cần tiền để trả nợ Lâm L đã có hành vi hai lần đặt chiếc xe ô tô biển kiểm soát 12A-XXX.XX để vay 500.000.000 đồng của chị Nguyễn H (lần một khoảng 21 giờ ngày 01/8/2018 lấy 200.000.000 đồng; lần hai ngày 09/8/2018 lấy tiếp 300.000.000 đồng). Số tiền có được từ việc đặt xe ô tô Lâm L đã dùng để trả nợ và tiêu sài cá nhân hết dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản là chiếc ô tô cho ông Liễu T. Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, được quy định tại khoản 3 Điều 175 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Vì vậy, lời bào chữa của Luật sư cho bị cáo là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

 [3] Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, quyền này được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn có tiền một cách nhanh chóng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn.

 [4] Về nhân thân: Bị cáo là người đã từng bị kết án, bị cáo có sức khỏe và khả năng lao động nhưng do thiếu tu dưỡng và muốn có tiền một cách nhanh chóng nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội.

 [5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có một tiền án 08 năm tù tại Bản án 52/2012/HSST ngày 19/4/2012 của Tòa án nhân dân thành phố L, ngày 24/01/2018 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù đến nay chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý nên lần phạm tội này là "tái phạm nguy hiểm". Vì vậy, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

 [6] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của bản thân; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có ông ngoại ông Cao V là liệt sỹ. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, khi lượng hình cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

 [7] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh thể hiện bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [8] Về trách nhiệm dân sự: Cơ quan điều tra Công an thành phố L đã trả lại xe ô tô biển kiểm soát 12A-XXX.XX cho ông T, ông T không yêu cầu bồi thường thêm. Chị Nguyễn H chưa yêu cầu giải quyết khoản vay nợ mà hai bên tự thỏa thuận nếu không thỏa thuận được sẽ yêu cầu giải quyết bằng một vụ án dân sự khác. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

 [9] Về xử lý vật chứng: Ngày 14/9/2018 Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn đã trả lại xe ô tô biển kiểm soát 12A-XXX.XX và giấy tờ xe cho ông Liễu T; trả lại 01 quyển Sổ hộ khẩu cho chị Nguyễn H nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

 [10] Đối với anh Hà H, chị Nông A không biết L thuê xe rồi mang đi đặt vay tiền, chị Nguyễn H nhận đặt chiếc xe ô tô để cho L vay tiền nhưng không biết chiếc xe này do L phạm tội mà có vì vậy cơ quan điều tra không đề nghị xử lý là có căn cứ.

 [11] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo qui định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 175; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lâm L phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lâm L 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/10/2018.

3. Về án phí: Bị cáo Lâm L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

392
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 231/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:231/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;