Bản án 230/2019/HS-ST ngày 22/08/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 230/2019/HS-ST NGÀY 22/08/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 22 tháng 8 năm 2019, tại Toà án nhân dân thành phố H, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 247/2019/TLST-HS ngày 06/8/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 240/2019/Q ĐXXST-HS ngày 09/8/2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn M - Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh: 30/5/1991, nơi sinh: H; Nơi cư trú: Tổ 7, khu 8, phường C, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: Lớp 6/12; Con ông: Nguyễn Văn H (đã chết); Con bà: Lê Thị X; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tháng 3 năm 2010 đi cai nghiện bắt buộc tại trung tâm cai nghiện Vũ Oai, huyện H, năm 2012 trở về địa phương; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 24/6/2019, hiện đang bị tạm giam; Có mặt tại phiên tòa.

*Người bị hại: Chị Phạm Thu T - Sinh năm 1988; Nơi cư trú: Tổ 4, khu 8, phường C, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; Vắng mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Lê Thị X- Sinh năm 1965; Nơi cư trú: Tổ 7, khu 8, phường C, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

1. Anh Lê Văn H - Sinh năm 1994; ĐKHKTT: Tổ 5, khu 8, phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; chỗ ở: Ngõ 13, tổ , khu , phường C, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Đào Việt H - Sinh năm 1994; Nơi cư trú: tổ 5, khu 1, phường C, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 20/6/2019, anh Lê Văn H do nghi ngờ kẻ gian lấy trộm chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu HP Probook 4540s mà anh H để trong phòng ngủ tại nhà nghỉ G 2 thuộc tổ 4, khu 8, phường C, thành phố H, do chị Phan Thị Thu T (người yêu anh H) là quản lý. Sau đó, chị T nhờ em họ là Đoàn Việt H tìm chiếc máy tính xách tay hộ. Anh H đồng ý và gọi cho Nguyễn Văn M là bạn bè xã hội với anh H để nhờ tìm chiếc máy tính xách tay nói trên. M mặc dù không biết ai là người lấy trộm chiếc máy tính xách tay nhưng do thiếu tiền ăn tiêu nên M đã nảy sinh ý định lừa đảo để chiếm đoạt tiền nên đã nói là có biết người lấy trộm chiếc máy tính xách tay này. Khoảng 17 giờ, ngày 22/6/2019, M đến gặp chị T, anh H rồi đưa thông tin giả là biết người lấy trộm chiếc máy tính xách tay và biết tài sản đang cầm cố để tạo lòng tin. Đồng thời yêu cầu chị T đưa cho M 2.300.000 đồng (hai triệu ba trăm nghìn đồng) trong đó 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) là để M đi chuộc máy về, còn 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) là tiền để đi lại. Do tin tưởng M nên chị T đã đưa cho M số tiền 2.300.000 đồng (hai triệu ba trăm nghìn đồng). Vì đã dùng số tiền trên để ăn tiêu hết nên đến khoảng 19 giờ ngày 23/6/2019, M tiếp tục đến nhà nghỉ G 2 gặp chị T, anh H mục đích để chiếm đoạt thêm tài sản. Tại đây, M nói với chị T, anh H là chiếc máy tính trên hiện đang cầm cố với giá 3.000.000 (ba triệu đồng) đồng nên bảo chị T đưa thêm 1.000.000 đồng (một triệu đồng) để M đi chuộc máy tính và hứa trong ngày 23/6/2019 sẽ cầm máy tính về. Nhưng chị T chưa đưa cho M tiền thì lực lượng Công an đến và đưa M về trụ sở làm việc.

* Người bị hại: Chị Phan Thị Thu T có lời khai xác nhận thời gian, tài sản bị chiếm đoạt, chị đã được nhận lại số tiền bồi thường là 2.300.000 đồng (hai triệu ba trăm nghìn đồng) và không yêu cầu gì khác. Đồng thời xin giảm nhẹ hình phạt cho bị can. (BL từ 49 đến 55).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị X xác nhận bà là mẻ của bị cáo. Bà đã tự nguyện bỏ ra số tiền 2.300.000 đồng (hai triệu ba trăm nghìn đồng) để thay cho bị cáo trả cho chị Phan Thị Thu T. Nay bà không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả lại cho bà số tiền này.

* Người làm chứng: Anh Lê Văn H, Đào Việt H xác nhận được chứng kiến việc sự việc xảy ra vào khoảng 17 giờ, ngày 22/6/2019 và vào khoảng 19 giờ ngày 23/6/2019, tại nhà nghỉ G 2 thuộc tổ 4, khu 8, phường C, thành phố H, Nguyễn Văn M có hành vi lừa chị Phan Thị Thu T để chiếm đoạt tiền …..

Tại bản cáo trạng số: 194/CT-VKSHL ngày 02/8/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố H để xét xử bị cáo Nguyễn Văn M về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn M theo tội danh và điều luật như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1, Điều 174 của Bộ luật hình sự; điểm b, i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/6/2019.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn M đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã nêu, phù hợp với Biên bản tạm giữ đồ vật; Biên bản khám nghiệm hiện trường; Bản ảnh hiện trường; Biên bản nhận dạng cùng với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ ngày 22/6/2019, tại nhà nghị G 2 thuộc tổ 4, khu 8, phường C, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh, do không có tiền ăn tiêu nên Nguyễn Văn M có hành vi gian dối để chiếm đoạt của chị Phan Thị Thu T số tiền 2.300.000 đồng (hai triệu ba trăm nghìn đồng).

Bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối, đưa ra những thông tin sai sự thật để người chủ tài sản tin mà giao tài sản cho bị cáo. Tài sản bị cáo chiếm đoạt là số tiền 2.300.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Văn M đã phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1, Điều 174 của Bộ luật Hình sự, như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng qui định của pháp luật .

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an địa phương. Cần xử lý nghiêm bị cáo để cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bị cáo đã tích cực tác động gia đình bồi thường thiệt hại; Bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Nên được hưởng theo điểm b, i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[3] Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

[5] Về bồi thường thiệt hại: Gia đình bị cáo đã bồi thường xong, nên không đề cập.

[6] Về vật chứng: 01 đĩa DVD lưu trữ dữ liệu, hình ảnh được sao chép từ điện thoại, là chứng cứ để chứng minh hành vi của bị cáo. Nên được lưu giữ tại hồ sơ vụ án.

[7] Về án phí: Bị cáo chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

[8] Đối với chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu HP Probook 4540s của anh Lê Văn Hoàn, sau khi sự việc xảy ra anh Hoàn đã tìm thấy chiếc máy tính trong một phòng ở tầng 05 của nhà nghỉ G 2, nên không đề cập xử lý.

Đối với hành vi M có ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1.000.000 đồng (một triệu đồng) của chị Phan Thị Thu T nhưng do chị T chưa đưa số tiền đó cho M thì đã bị công an phát hiện và đưa về trụ sở làm việc, hành vi này không đủ điều kiện xử lý, nên không đề cập xử lý.

[9] Quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án này thì Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn M 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/6/2019.

3. Về án phí: n cứ vào điểm a, khoản 1, Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Buộc bị cáo chịu 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử công khai, có mặt bị cáo và bà X, vắng chị T. Báo quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, bị cáo và bà Xoan kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; chị T kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 230/2019/HS-ST ngày 22/08/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:230/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;