Bản án 230/2019/HNGĐ-ST ngày 19/09/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỜ ĐỎ, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

 BẢN ÁN 230/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Ngày 19 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 104/2019/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 04 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 159/2019/QĐXX-ST ngày 14 tháng 8 năm 2019 và Thông báo đưa vụ án ra xét xử số 173/2019/TBXX.ST ngày 04/9/2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1979. Địa chỉ: Ấp P, xã H, huyện Đ, TP. Cần Thơ.

(Có mặt tại phiên tòa).

Bị đơn: Ông Trần Văn S, sinh năm 1977.

Địa chỉ: Ấp P, xã H, huyện Đ, TP. Cần Thơ.

(Vắng tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 27/3/2019, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị N trình bày: Vào năm 1995, bà N có quen biết ông Trần Văn S và tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức đám cưới theo phong tục cổ truyền, đến ngày 20/7/2006 thì tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hiệp, huyện Đ, thành phố Cần Thơ. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2007 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do ông S không quan tâm chăm sóc vợ, con, mỗi khi đi làm về vợ chồng thường cãi vã, nhưng vì 02 con còn nhỏ, nên bà N cố gắng chịu đựng để nuôi dạy con khôn lớn. Thời gian gần đây, ông S vẫn thường xuyên kiếm chuyện cãi nhau với chị N và có mối quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, nên vợ chồng chính thức ly thân từ năm 2010 đến nay. Do thấy hôn nhân không hạnh phúc, nên bà N yêu cầu được ly hôn với ông S.

Về con chung: Bà N và ông S có 02 con chung là Trần Văn Đ (nam) sinh ngày 12/8/1996, đã trưởng thành và cháu Trần Văn H, sinh ngày 15/5/2003, hiện đang sống cùng với ông S. Bà N đồng ý giao cháu Trần Văn H cho ông S nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành và xin miễn cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Ông Trần Văn S, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia phiên họp về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng vắng mặt không lý do, nên vụ án không tiến hành hòa giải được. Do đó, Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cờ Đỏ trình bày ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký và nguyên đơn đã thực hiện đúng theo quy đinh của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật về sự có mặt khi được Toà án triệu tập. Bị đơn có nơi cư trú tại huyện Cờ Đỏ nên Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

Về nội dụng vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà N đối với ông S.

Về con chung: Giao con chung chưa thành niên Trần Văn H cho ông S nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

Về Tài sản chung và nợ chung: Do ông S vắng mặt, không có ý kiến đối chất về vấn đề này, nên tách thành vụ án khác để giải quyết khi có yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Nguyễn Thị N và ông Trần Văn S, tiến tới hôn nhân vào năm 1995, nhưng đến năm 2006 mới đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Nay, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và bà N có đơn xin ly hôn với ông S, đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Tranh chấp này, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, bị đơn có nơi cư trú tại địa bàn huyện Cờ Đỏ, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ theo quy định tại Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]Về thủ tục tố tụng: Ông Trần Văn S, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng vắng mặt không lý do, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông S theo quy định tại các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị N và ông Trần Văn S có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên xác định đây là hôn nhân hợp pháp. Về nguyên nhân mâu thuẫn theo lời trình bày của bà N do ông S không quan tâm đến việc chăm sóc vợ con, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, ông S có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2010 đến nay. Tại Biên bản xác minh ngày 21/5/2019 của Tòa án ghi nhận nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng giữa bà N và ông S do cả hai đều có vợ, có chồng khác ở bên ngoài, ông S hiện đi làm ăn xa, nhưng có thỉnh thoảng về nhà thăm con. Bản thân ông S, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng vẫn vắng mặt không ý do, cũng như không có văn bản trình bày ý kiến hoặc cung cấp tài liệu, chứng cứ nào đối với yêu cầu của bà N. Chứng tỏ, ông S không quan tâm và có thiện chí trong việc hàn gắn tình cảm vợ chồng với bà N. Điều đó cho thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà N và ông S đã thật sự sâu sắc, trầm trọng, hôn nhân không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân là hạnh phúc không đạt được. Nên, yêu cầu ly hôn của bà N là có sơ sở chấp nhận.

[4] Về con chung: Trần Văn Đ (nam) sinh ngày 12/8/1996, hiện đã trưởng thành nên không xem xét. Đối với cháu Trần Văn H, sinh ngày 15/5/2003, hiện đang sống cùng với ông S, cháu H có nguyện vọng được sinh sống cùng với ông S, bà N cũng đồng ý giao cháu H cho ông S nuôi dưỡng và xin được miễn cấp dưỡng. Do đó, có cơ sở giao cháu H cho ông S nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Ông S vắng mặt nên không có ý kiến gì về vấn đề cấp dưỡng cho con chung, nên vì lợi ích mọi mặt của con chung, các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung và cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho bà N không ai được quyền ngăn cản.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Do ông S vắng mặt, không có ý kiến đối chất về vấn đề tài sản chung và nợ chung. Nên, tách thành vụ án khác để giải quyết khi các đương sự có tranh chấp hoặc yêu cầu.

[6] Về án phí: Bà Trần Thị N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 227, 228, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 57 Luật hôn nhân và gia đình 2014; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N đối với ông Trần Văn S.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị N được ly hôn với ông Trần Văn S.

Về con chung: Giao cháu Trần Văn H, sinh ngày 15/5/2003 cho ông Trần Văn S nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho bà N, không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích mọi mặt của con chung, các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung và cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

Về tài sản chung và nợ chung: Tách thành vụ án khác để giải quyết khi các đương sự có tranh chấp hoặc có yêu cầu.

Về án phí: Bà N chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, chuyển số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí bà N đã nộp theo biên lai số 001477 ngày 08/4/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cờ Đỏ thành tiền án phí.

Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; ông Trần Văn S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc án án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 230/2019/HNGĐ-ST ngày 19/09/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:230/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cờ Đỏ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;