Bản án 226/2021/HS-ST ngày 02/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ HỘI

BẢN ÁN 226/2021/HS-ST NGÀY 02/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 02 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 211/2021/HS-ST ngày 31/5/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 219/2021/QĐXXST-HS ngày 17/6/2021, đối với bị cáo:

Nguyn Thị Thu T – sinh năm 1984 tại Hải Phòng; Tên gọi khác: không; Giới tính: nữ; Đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại: phố C, phường L, quận L, Thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Thái D và bà Trương Thị T; chồng: Vũ Xuân H, có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không; danh chỉ bản số: 820, lập ngày 30/12/2020 tại Công an quận Đống Đa; bị cáo bị bắt (truy nã) ngày 22/12/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 01 – Công an Thành phố Hà Nội.

(Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 03 giờ 50 phút ngày 07/4/2020, Công an phường Ô Chợ Dừa tiến hành kiểm tra hành chính nhà số 47 Võ Văn Dũng, Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội. Lúc này tại phòng ngủ tầng 05 gồm có: Huỳnh Quang T1, Vũ Ngọc D, Trần Vũ Hoàng S, Phan Phương B, Vũ Ngọc L, Vũ Hồng N, Phạm Ngọc K, Nguyễn Dương T và Nguyễn Thái M. Tại phòng ngủ tầng 3 có Nguyễn Thanh T2 đang nằm ngủ.

Quá trình kiểm tra Cơ quan Công an phát hiện, thu giữ tại phòng ngủ tầng 05 gồm:

- 02 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng 06cm x 06cm, bên trong mỗi túi chứa 10 viên nén hình vuông, màu cam, được để trong hộp giấy dưới sàn nhà.

- 01 đĩa sứ hình tròn màu xanh, trên bề mặt có tinh thể màu trắng ở dưới gầm tủ quần áo.

Tại bản kết luận giám định số 2821/KLGĐ-PC09 ngày 16/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội, kết luận:

- 20 viên nén hình vuông màu cam bên trong 02 túi nilon đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng 7,066gam.

- Tinh thể màu trắng bên trên 01 đĩa sứ hình tròn màu xanh là ma túy loại Ketamine, khối lượng 0,102gam.

Tại Cơ quan điều tra Huỳnh Quang T1 và Nguyễn Thanh T2, khai nhận: T1 sử dụng ma túy từ đầu năm 2019, mỗi lần sử dụng ma túy T1 đều đưa tiền cho Nguyễn Thị Thu T (sinh năm 1984, hộ khẩu thường trú: phố C, phường L, quận L, Hải Phòng) về Hải Phòng mua ma túy của Lê Công C (sinh năm 1991, hộ khẩu thường trú: phường A, quận L, Hải Phòng) mang về số 47 Võ Văn Dũng, phường Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội để cho T1 sử dụng. Khi nào T1 cần sử dụng ma túy thì T1 bảo T và T2 đưa ma túy cho T1. Nếu hết ma túy, thì T1 tiếp tục đưa tiền cho T về Hải Phòng mua ma túy. Ngày 29/3/2020 T1 bảo T về Hải Phòng mua ma túy để sử dụng. Đến ngày 31/3/2020, T2 chở T bằng ô tô về Hải Phòng thăm con và mua ma túy. Trên đường đi về Hải Phòng, T1 đã nhắn tin bảo T lấy 50 viên ma túy tổng hợp và 10 gam Ketamine. Tuy nhiên, T bảo hàng (ma túy) khan và mất công đi lại nên T1 đã bảo T lấy khoảng 70 viên ma túy tổng hợp và 15 gam Ketamine. T đã yêu cầu T1 chuyển khoản cho T số tiền 15.000.000 đồng, T1 đồng ý và chuyển khoản số tiền này cho T. Ngoài ra, T bảo T1 chuyển khoản cho C số tiền 20.000.000 đồng và T1 đã chuyển khoản cho C 10.000.000 đồng, còn nợ lại C 10.000.000 đồng. Khi đến khu vực đường tàu phường Cát Dài, Lê Chân, Hải Phòng, T2 ngồi trên xe ô tô đợi còn T trực tiếp đi mua ma túy. Sau khi mua được ma túy, T và T2 đi về nhà số 47 Võ Văn Dũng, Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội.

Theo T1, T2 khai nhận: Đến tối ngày 01/4/2020 tại tầng ngủ tầng 05 nhà số 47 Võ Văn Dũng, T đã mang số ma túy mua được ở Hải Phòng ra chia thành nhiều gói nhỏ. Sau đó, T1 và T đã cùng nhau sử dụng ma túy. Số ma túy còn lại được để tại phòng ngủ tầng 05 nhà số 47 Võ Văn Dũng. Đến ngày 03/4/2020, T1 và T cãi nhau nên T đã bỏ đi. Tối ngày 05/4/2020 T1 đã điện thoại bảo T2 lấy ở phòng ngủ 01 túi nilon chứa 10 viên nén hình vuông màu cam và 01 túi nilon Ketamine mang đến khu vực Chung cư Time City, Hoàng Mai, Hà Nội để T1 sử dụng. Đến tối ngày 06/4/2020 T1 tiếp tục gọi điện cho T2 chuẩn bị cho T1 01 túi nilon chứa 10 viên nén hình vuông màu cam để T1 sử dụng. T2 đã lấy trong ngăn kéo bàn phấn 01 túi ma túy rồi để trên mặt bàn phấn. Sau đó, T1 cùng Vũ Ngọc D, Trần Vũ Hoàng S, Phan Phương B, Vũ Ngọc L, Vũ Hồng N, Phạm Ngọc K, Nguyễn Dương T và Nguyễn Thái M đã về phòng ngủ tầng 05 nhà số 47 Võ Văn Dũng sử dụng trái phép chất ma túy. Đến khoảng 03 giờ 50 phút ngày 07/4/2020 thì bị Công an phường Ô Chợ Dừa tiến hành kiểm tra, phát hiện, bắt giữ.

Quá trình điều tra xác định: Vũ Ngọc D, Trần Vũ Hoàng S, Phan Phương B, Vũ Ngọc L, Vũ Hồng N, Phạm Ngọc K, Nguyễn Dương T và Nguyễn Thái M vi phạm có mức độ nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý bằng biện pháp hình sự.

Ngày 22/12/2020, Tòa án nhân dân quận Đống Đa đã xét xử và tuyên phạt đối với Huỳnh Quang T1, Nguyễn Thanh T2 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập được ngày 30/10/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Đống Đa đã ra các Quyết định khởi tố bị can, Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Nguyễn Thị Thu T nhưng T đã bỏ đi khỏi nơi cư trú.

Ngày 22/12/2020 tại khu vực phường Lam Sơn, quận Lê Chân, Thành phố Hải Phòng, Nguyễn Thị Thu T đã bị Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Đống Đa bắt theo lệnh truy nã.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Thu T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình và khai: Tối ngày 31/3/2020, T về Hải Phòng thăm con thì T1 đã nhờ T mua ma túy cho T1 để sử dụng. Trên đường đi T1 đã chuyển khoản cho T số tiền 15.000.000 đồng. Khi về đến Hải Phòng, T đi đến khu vực đường tàu phường Cát Dài, Lê Chân, Hải Phòng mua của một người đàn ông không quen biết 01 túi nilon bên trong có khoảng mấy chục viên nén hình vuông màu cam và 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng (T không kiểm đếm) với giá 15.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T và T2 mang về tầng 05 nhà số 47 Võ Văn Dũng, Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội. Tại đây, T lấy một số viên ma túy bị vỡ mang đi sử dụng. Số ma túy còn lại T để tại tầng 05 số 47 Võ Văn Dũng. Sau đó, do xảy ra mâu thuẫn với T1 nên T đã bỏ đi.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho T (theo lời khai của T), Cơ quan điều tra không xác định được nên không có căn cứ, làm rõ để xử lý.

Đối với Lê Công C, quá trình điều tra, xác minh C vắng mặt tại nơi cư trú nên ngày 17/5/2021 Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tách rút tài liệu số 30/CQĐT để tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau.

Bản cáo trạng số 200/CT-VKSĐĐ ngày 27/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội đã truy tố: Nguyễn Thị Thu T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thị Thu T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm n khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt: Nguyễn Thị Thu T từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai người làm chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng đã thu giữ. Bị cáo Nguyễn Thị Thu T đã có hành vi tàng trữ trái phép 7,066 gam ma túy loại MDMA và 0,102 gam ma tuý loại Ketamine, mục đích để sử dụng. Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa truy tố bị cáo theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]. Tính chất vụ án là rất nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm, tiếp tay cho tệ nạn ma túy ngày càng phát triển. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận biết rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy cần phải xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn rất nghiêm khắc mới bảo đảm tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Thị Thu T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, thái độ ăn năn hối cải, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ cho thấy bị cáo không có khả năng thi hành án. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về các vấn đề khác:

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Thu T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm n khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt :

Nguyễn Thị Thu T 05 năm 06 tháng (năm năm sáu tháng) tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 22/12/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng - Các Điều 136; 298; 331; 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thị Thu T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 226/2021/HS-ST ngày 02/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:226/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;