TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 226/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/10/2020 VỀ VIỆC LY HÔN VÀ CON CHUNG KHI LY HÔN
Ngày 23 tháng 10 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Th, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 604/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2020 về việc “Ly hôn và con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 250/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 07 tháng 10 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị V; địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện Th, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Anh Đồng Xuân T; địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện Th, thành phố Hải Phòng; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị V trình bày: Chị và anh Đồng Xuân T kết hôn với nhau trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện vào năm 2008 và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện Th, thành phố Hải Phòng vào ngày 22/02/2008. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống với nhau tại thôn Đ, xã L, huyện Th, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, cuộc sống chung không hạnh phúc nên vợ chồng đánh cãi chửi nhau. Do mâu thuẫn nên vợ chồng sống ly thân nhau. Chị V nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đồng Xuân T.
Về con chung: Chị và anh Đồng Xuân T có 02 con chung tên Đồng Xuân Bách, sinh ngày 26/7/2008 và Đồng Thị V Trang, sinh ngày 14/8/2016, khi ly hôn chị xin nuôi cả hai con chung. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con để chị và anh Đồng Xuân T tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị V trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa và các lời trình bày tại Tòa án, bị đơn là anh Đồng Xuân T trình bày ý kiến như sau: Anh T thống nhất với trình bày của chị Nguyễn Thị V về thời gian, điều kiện kết hôn. Sau khi cưới vợ chồng về chung sống cùng với gia đình nhà anh T, quá trình chung sống vợ chồng không thống nhất với nhau về làm ăn kinh tế, không chung thực với nhau. Do đó, vợ chồng đã ly thân nhau được khoảng 02 tháng nay, chị V đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở Bắc Giang sinh sống. Anh có tìm chị V về nhưng chị V không về và có đơn xin ly hôn anh. Vì con chung con nhỏ nên anh không đồng ý ly hôn nhưng nay chị V nhất quyết xin ly hôn nên anh chấp nhận. Về con chung, vợ chồng có 02 con chung tên Đồng Xuân Bách, sinh ngày 26/7/2008 và Đồng Thị V Trang, sinh ngày 14/8/2016, hiện nay anh đang nuôi con tên Đồng Xuân Bách, còn chị V đang nuôi con tên Đồng Thị V Trang. Bản tự khai tại Tòa án anh có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con như hiện nay, nhưng đến phiên tòa hôm nay anh T lại có nguyện vong được nuôi con tên Đồng Thị V Trang. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, để anh và chị V tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn, bị đơn đều đã chấp hành đúng quy định của pháp luật. Kiểm sát viên đề nghị Tòa án căn cứ Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Nguyễn Thị V được ly hôn anh Đồng Xuân T. Về con chung: Giao con chung tên: Đồng Xuân Bách cho anh Đồng Xuân T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giao con chung tên Đồng Thị V Trang cho chị Nguyễn Thị V nuôi dưỡng, chăm sóc. Việc nuôi con của anh Đồng Xuân T và chị Nguyễn Thị V được thực hiện cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị V và anh Đồng Xuân T không yêu cầu, nên không đề cập giải quyết; Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị V và anh Đồng Xuân T không có yêu cầu nên không đề cập giải quyết.
Các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và Tòa án thu thập gồm: Đơn xin xác nhận, giấy khai sinh của con, trích lục kết hôn, bản sao chứng minh nhân dân; Biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Th, thành phố Hải Phòng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
Nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn có mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.
[2]. Về quan hệ hôn nhân:
Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị V và anh Đồng Xuân T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L theo Giấy chứng nhận kết hôn số 08, ngày 22/02/2008 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Do mâu thuẫn nên vợ chồng chị V đã bỏ đi về nhà bố mẹ đẻ ở Bắc Giang sinh sống được 02 tháng nay và vợ chồng ly thân nhau từ đó đến nay. Nay để ổn định cuộc sống chị V đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T. Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị V và anh T có tồn tại và đã kéo dài, không còn khả năng đoàn tụ được nữa, chị V xác định tình cảm không còn và xin ly hôn, tại phiên tòa anh T cũng chấp nhận việc chị V xin ly hôn. Vì vậy căn cứ Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị V, cho chị Nguyễn Thị V được ly hôn anh Đồng Xuân T.
[3]. Về con chung: Chị Nguyễn Thị V và anh Đồng Xuân T có 02 con chung tên: Đồng Xuân Bách, sinh ngày 26/7/2008 và Đồng Thị V Trang, sinh ngày 14/8/2016, chị V có nguyện vọng được nuôi cả hai con và hiện nay chị đang nuôi con tên Đồng Thị V Trang. Anh T đang nuôi con tên Đồng Xuân Bách nhưng lại có nguyện vọng được nuôi con tên Đồng Thị V Trang. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Tài liệu xác minh tại địa phương việc anh T nuôi con tên Đồng Xuân Bách và chị V nuôi con tên Đồng Thị V Trang vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt, hơn nữa con Đồng Xuân Bách có nguyện vọng muốn ở với anh T. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định giao các con chung tên: Đồng Xuân Bách cho anh Đồng Xuân T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giao con tên Đồng Thị V Trang cho chị Nguyễn Thị V nuôi dưỡng, chăm sóc. Việc trực tiếp nuôi con của anh Đồng Xuân T và chị Nguyễn Thị V được thực hiện cho đến khi từng con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị V và anh Đồng Xuân T thống nhất tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4]. Về tài sản chung:
Chị Nguyễn Thị V và anh Đồng Xuân T đều trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[5] Về án phí:
Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Chị Nguyễn Thị V phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử :
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị V được ly hôn anh Đồng Xuân T.
2. Về con chung: Giao con chung tên Đồng Xuân Bách, sinh ngày 26/7/2008 cho anh Đồng Xuân T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc; Giao con chung tên Đồng Thị V Trang, sinh ngày 14/8/2016 cho chị Nguyễn Thị V nuôi dưỡng, chăm sóc. Việc trực tiếp nuôi con của anh Đồng Xuân T và chị Nguyễn Thị V được thực hiện cho đến khi từng con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị V phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002229, ngày 18 tháng 8 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Th thành phố Hải Phòng. Chị Nguyễn Thị V đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 226/2020/HNGĐ-ST ngày 23/10/2020 về việc ly hôn và con chung khi ly hôn
Số hiệu: | 226/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/10/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về