Bản án 223/2018/DS-PT ngày 16/08/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 223/2018/DS-PT NGÀY 16/08/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 154/2018/TLPT-DS ngày 13 tháng 7 năm 2018 về: “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 39/2018/DS-ST ngày 10 tháng 4 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện G bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 178/2018/QĐPT-DS ngày 20 tháng 7 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1965, cư trú tại: Ấp S, xã T1, huyện G, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn:

1. Ông Trần Văn H1, sinh năm 1973;

2. Bà Phan Thị T, sinh năm1975;

Cùng cư trú tại: Ấp S1, xã T1, huyện G, tỉnh Bến Tre.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Trần Văn H1 là: Bà Phan Thị T (được ủy quyền theo văn bản ủy quyền ngày 15/8/2018).

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn là: Bà Trần T2, Luật sư của Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn V, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đỗ Văn E, sinh năm 1964, cư trú tại: Ấp S, xã T1, huyện G, tỉnh Bến Tre.

Các đương sự có mặt tại phiên tòa.

- Người kháng cáo: Bà Phan Thị T là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:

Bà có hợp đồng mua bán thức ăn chăn nuôi (cám) với ông H1 và bà T.

Khi mua bán cám ông H1, bà T có ghi sổ nợ và hứa mỗi đợt bán heo sẽ trả tiền cám nhưng ông H1, bà T không thực hiện đúng như đã thỏa thuận. Đến ngày 16/6/2017, hai bên đối chiếu chốt nợ, ông H1, bà T còn thiếu bà số tiền là 672.908.000 đồng. Sau nhiều lần bà có yêu cầu ông H1, bà T trả số nợ nêu trên nhưng ông bà không trả. Sau khi khởi kiện tại Tòa án, ông H1, bà T có trả cho bà số tiền là 40.000.000 đồng nên đến nay ông H1, bà T còn thiếu lại bà số tiền là 632.908.000 đồng. Bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Trần Văn H1, bà Phan Thị T có trách nhiệm trả cho bà số tiền do mua bán thức ăn còn nợ là 632.908.000 đồng không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn là ông Trần Văn H1 và bà Phan Thị T trình bày:

Ông bà thừa nhận có mua thức ăn gia súc của bà H. Số tiền hiện tại ông bà còn nợ của bà H là 632.908.000 đồng. Theo giấy xác nhận nợ thì ông bà có nợ của bà H là 672.908.000 đồng nhưng ông bà có trả dần số tiền là 40.000.000 đồng nên số tiền nợ hiện tại là 632.908.000 đồng. Ông bà cũng đồng ý trả cho bà H số tiền nợ nhưng hiện nay hoàn cảnh của ông bà quá khó khăn, ông bà làm ăn thua lỗ, ông bà xin trả dần mỗi năm là 50.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 39/2018/DS-ST ngày 10 tháng 4 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện G đã quyết định như sau:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị H về việc yêu cầu ông Trần Văn H1 và bà Phan Thị T có trách nhiệm liên đới trả cho bà Nguyễn Thị H số tiền nợ mua bán thức ăn là 632.908.000 đồng (sáu trăm ba mươi hai triệu chín trăm lẻ tám nghìn đồng).

Buộc ông Trần Văn H1 và bà Phan Thị T có trách nhiệm liên đới trả cho bà Nguyễn Thị H số tiền là 632.908.000 đồng (sáu trăm ba mươi hai triệu chín trăm lẻ tám nghìn đồng).

Bác yêu cầu của ông Trần Văn H1 và bà Phan Thị T về việc xin trả dần mỗi năm là 50.000.000 đồng cho bà H.

Ngoài ra, Bản án còn tuyên án phí, quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 24/4/2018, bị đơn bà Phan Thị T kháng cáo với nội dung: Về thủ tục yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy Bản án dân sự sơ thẩm số: 39/2018/DS-ST ngày 10 tháng 4 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện G, về nội dung yêu cầu được trừ tiền đầu bao là 29.535.707 đồng và xin trả dần mỗi năm 50.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.

Tại phiên tòa phúc thẩm bà Phan Thị T yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét khấu trừ tiền đầu bao cám là 29.535.707 đồng và xin trả dần mỗi năm 50.000.000 đồng cho đến khi hết nợ, không yêu cầu hủy Bản án sơ thẩm. Phía nguyên đơn đồng ý khấu trừ số tiền 29.535.707 đồng vào tiền nợ, nhưng không đồng ý yêu cầu trả dần của bị đơn. Hai bên đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án.

Ý kiến của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn: Do hai bên đương sự thỏa thuận được về việc khấu trừ tiền đầu bao là 29.535.707 đồng nên đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm ghi nhận. Tuy nhiên, do hoàn cảnh bị đơn khó khăn vì chăn nuôi gặp phải dịch bệnh, không có khả năng trả nợ một lần nên đề nghị được trả dần mỗi năm 50.000.000 đồng cho đến khi hết nợ và đồng ý bổ sung ông Đỗ Văn E vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về tố tụng người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự; về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm hai bên được sự thỏa thuận khấu trừ tiền đầu bao là 29.535.707 đồng vào tiền nợ và bị đơn không yêu cầu hủy án sơ thẩm, tuy nhiên bà T yêu cầu trả dần số tiền nợ còn lại mỗi năm 50.000.000 đồng cho đến khi hết nợ nhưng không được phía nguyên đơn đồng ý. Vì vậy, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm buộc bị đơn có nghĩa vụ trả cho bà H, ông E trả số tiền 603.372.293 đồng.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Phía bị đơn thừa nhận có hợp đồng mua thức ăn chăn nuôi với bà H, sau khi tổng kết nợ thì bị đơn còn nợ bà H số tiền 632.908.000 đồng. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định đây là sự thật, được thừa nhận, nguyên đơn không cần phải chứng minh. Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm bà H không yêu cầu tính lãi đối với số tiền nợ nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn ông H1, bà T liên đới trả cho bà H số tiền 632.908.000 đồng là phù hợp. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm hai bên đương sự thỏa thuận khấu trừ tiền đầu bao là 29.535.707 đồng vào tiền nợ nên bà T, ông H1 có nghĩa vụ trả số tiền nợ còn lại là 603.372.293 đồng cho bà H, ông E.

[2] Ông H1, bà T yêu cầu được trả dần số tiền nợ mỗi năm 50.000.000 đồng cho đến khi hết nợ nhưng không được phía nguyên đơn đồng ý nên Tòa án không có cơ sở để ghi nhận.

[3] Tại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh cá thể được cấp cho hộ ông Đỗ Văn E, chỉ có tên đăng ký là ông Đỗ Văn E, đáng lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải xem xét tư cách khởi kiện của bà H. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn và bị đơn có mặt cùng đồng ý đưa ông Đỗ Văn E vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để thực hiện quyền lợi cùng bà H, việc bổ sung này không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ai và đã được các đương sự đồng ý. Như vậy, bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà Nguyễn Thị H, ông Đỗ Văn E.

Từ những nhận định trên, chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn bà Phan Thị T, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 39/2018/DS-ST ngày 10 tháng 4 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện G, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội; do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên ông Trần Văn H1 và bà Phan Thị T phải liên đới chịu án phí là 28.134.891 đồng.

Hoàn tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp cho bà H là 16.822.700 đồng theo biên lai thu số 0013738 ngày 05/12/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Bến Tre.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Theo quy định tại Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí bà Phan Thị T đã nộp theo biên lai thu số 0016742 ngày 26/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Bến Tre.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Phan Thị T;

Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 39/2018/DS-ST ngày 10 tháng 4 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Bến Tre.

Áp dụng các Điều 430, 440 Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản với bị đơn ông Trần Văn H1 và bà Phan Thị T.

Ghi nhận việc bà Nguyễn Thị H, ông Đỗ Văn E đồng ý khấu trừ số tiền đầu bao là 29.535.707 đồng vào tiền nợ của ông Trần Văn H1, bà Phan Thị T.

Buộc ông Trần Văn H1 và bà Phan Thị T có trách nhiệm liên đới trả cho bà Nguyễn Thị H, ông Đỗ Văn E số tiền là 603.372.293 đồng (sáu trăm lẻ ba triệu ba trăm bảy mươi hai nghìn hai trăm chín mươi ba đồng).

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trần Văn H1 và bà Phan Thị T phải liên đới chịu án phí là 28.134.891 đồng (hai mươi tám triệu một trăm ba mươi bốn nghìn tám trăm chín mươi mốt đồng).

Hoàn tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp cho bà H là 16.822.700 đồng (mười sáu triệu tám trăm hai mươi hai nghìn bảy trăm đồng) theo biên lai thu số 0013738 ngày 05/12/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Bến Tre.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Hoàn tiền tạm ứng án phí cho Phan Thị T là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0016742 ngày 26/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Bến Tre.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 223/2018/DS-PT ngày 16/08/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:223/2018/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;