TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 222/2020/HSST NGÀY 03/11/2020 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 03 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 207/2020/HSST ngày 05 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:
* Họ và tên: Nguyễn Thị M Giới tính: Nữ Tên gọi khác: không Sinh năm: 1958 Nơi ĐKNKTT: số 20 N, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Chỗ ở: số 53 N, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/10; Họ tên Cha: Nguyễn Văn Khiết (đã mất); Họ tên Mẹ: Phạm Thị Tiếp (đã mất); Gia đình có 05 chị em, bị cáo là con thứ ba; Chồng: Trương Vĩnh Tuấn (sinh năm 1954); Có 02 con sinh năm 1979 và 1983 Nhân thân: Chưa Tiền án, tiền sự.
Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú Có mặt tại phiên tòa
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 31/7/2020, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - Công an quận Hoàn Kiếm trong quá trình làm nhiệm vụ trên địa bàn, khi đến trước cửa số nhà 53 phố N, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, phát hiện bị cáo Nguyễn Thị M đang cầm trên tay 02 túi nilông màu đen có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện thu giữ bên trong 02 túi nilông có 400 bao thuốc lá (gồm 300 bao có tên ESSE SPECIAL GOLD; 100 bao có tên BLEND NO 555 GOLD) không có hoá đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc. Lúc này, bị cáo M khai nhận 400 bao thuốc lá trên là thuốc lá do nước ngoài sản xuất, mua về bán kiếm lời và không có hóa đơn chứng từ. Tổ công tác đã lập hồ sơ, biên bản tạm giữ, niêm phong tang vật và đưa bị cáo M về trụ sở để giải quyết.
Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp tại nhà số 53 N, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Quá trình khám xét thu giữ tại tầng 1 gồm:
- 120 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu ESSE CHANGE.
- 100 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu ESSE LIGHT.
- 40 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu ESSE SPECIAL GOLD.
- 190 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu CANYON VANILLA.
- 150 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu ZEST MARULA.
- 200 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu BLEND NO 555 GOLD.
- 120 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu ZEST.
- 230 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu ZOUK.
- 160 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu GEORGE KARELIAS AND SONS. Tổng số thu giữ khám xét gồm: 1310 bao thuốc lá điếu các loại.
Bản kết luận giám định số 7166/KLGĐ-PC09 ngày 07/8/2020 của Phòng KTHS - Công an thành phố Hà Nội có, kết luận:
Tang vật thu giữ quả tang gồm: 300 bao thuốc lá nhãn hiệu Esse Special Gold và 100 bao thuốc lá nhãn hiệu Blend no 555 Gold: đều là thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất.
Tang vật thu giữ khi khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo Nguyễn Thị M: 200 bao nhãn hiệu Blend no 555 Gold; 40 bao nhãn hiệu Esse Special Gold;
120 bao nhãn hiệu Esse Change; 100 bao nhãn hiệu Esse Light; 190 bao nhãn hiệu Canyon Vannilla; 150 bao nhãn hiệu Zest Marula; 120 bao nhãn hiệu Zest; 230 bao nhãn hiệu Zouk; 160 bao nhãn hiệu George Karelias and Sons: đều là thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất.
Tại Cơ quan điều tra, bị cáo bị cáo Nguyễn Thị M khai nhận có đăng ký hoạt động kinh doanh buôn bán mặt hàng thuốc lá do Việt Nam sản xuất tại nhà số 53 N, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội từ năm 2017 đến nay. Từ đầu tháng 04/2020, được một số người đến mời chào bán thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất nên đã mua gom lại các loại thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất để bán kiếm lời. Bị cáo mua gom được tổng số 1710 bao thuốc lá điếu các loại và cất giấu trong nhà tại số 53 N, bị cáo M không biết rõ nhân thân lai lịch, địa chỉ của những người đến bán thuốc lá. Đến khoảng 15 giờ ngày 31/7/2020, bị cáo được một nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) đến hỏi mua 400 bao thuốc lá điếu (nhãn hiệu ESSE và 555) với giá 10.400.000 đồng, bị cáo đồng ý bán rồi cầm 02 túi nilông đựng 400 bao thuốc lá điếu thì bị kiểm tra bắt giữ như đã nêu trên. Nếu bán được thành công số thuốc lá trên, bị cáo sẽ được lời 400.000 đồng. Bị cáo M bán thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất một mình, không có ai tham gia giúp sức.
Về các đối tượng bán, hỏi mua thuốc lá điếu nhập lậu do nước ngoài sản xuất mà bị cáo Nguyễn Thị M mua, bán, do bị cáo khai không biết nhân thân, lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có điều kiện xác minh làm rõ để xử lý.
Tại bản cáo trạng số 193/CT-VKS ngày 20/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm truy tố bị cáo Nguyễn Thị M về tội “Buôn bán hàng cấm” theo điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Thị M khai nhận hành vi phạm tội như đã khai tại cơ quan điều tra và đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà sau khi phân tích tính chất hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M từ 15 tháng đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 30 tháng đến 36 tháng. Về tang vật: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số lượng thuốc lá do nước ngoài sản xuất thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị M Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Thị M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với tang vật chứng đã thu giữ, đồng thời căn cứ vào Bản kết luận giám định số 7166/KLGĐ- PC09 ngày 07/8/2020 của Phòng KTHS - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Toàn bộ 1710 bao thuốc lá thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị M đều là thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 15 giờ ngày 31/7/2020, tại trước số 53 phố N, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, bị cáo Nguyễn Thị M đang thực hiện hành vi bán 400 bao thuốc lá điếu nhập lậu do nước ngoài sản xuất thì bị bắt quả tang thu giữ cùng tang vật. Ngoài ra còn thu giữ tại nhà ở của bị cáo số 53 phố N có 1310 bao thuốc lá điếu nhập lậu do nước ngoài sản xuất, nhằm mục đích bán thu lời bất chính. Tổng số thuốc lá điếu bị cáo Nguyễn Thị M cất giấu là 1710 bao đều là thuốc lá điếu nhập lậu do nước ngoài sản xuất, nhằm bán thu lời bất chính.
Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị M đã phạm vào tội “Buôn bán hàng cấm”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 điều 190 Bộ luật hình sự.
Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự Hành vi buôn bán 1710 bao thuốc lá điếu nhập lậu của bị cáo là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước được quy định trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại. Bị cáo là người cư trú tại Hà Nội, đang kinh doanh mặt hàng thuốc lá đáng lẽ phải hiểu được các quy định của pháp luật trong lĩnh sản xuất, kinh doanh, thương mại, tuy nhiên bị cáo vì ham lợi nhuận nên cố ý thực hiện hành vi phạm tội lần này. Xét thấy, cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo cũng như phòng ngừa chung. Tuy nhiên, bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo lần đầu phạm tội và bị đưa ra xét xử, khi bị phát hiện đã kịp thời khai báo, giao nộp cho quan điều tra thu giữ hàng phạm pháp tại nhà, bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng nên khi áp dụng hình phạt cần xem xét áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo.
Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số lượng thuốc là điếu do nước ngoài sản xuất đã thu giữ của bị cáo.
Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử hợp pháp
Vì các lẽ trên:,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị M phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.
2. Áp dụng:
+ Điểm b Khoản 1 điều 190, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự
+ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106, 135, 331, 333 - Bộ luật tố tụng hình sự 2015
+ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án,
3. Xử phạt: Nguyễn Thị M 15 (Mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thủ thách là 30 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm (nơi bị cáo cư trú) để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Không áp dụng hình phạt tiền theo khoản 4 Điều 190 Bộ luật HS
4. Tang vật: Tịch thu tiêu hủy:
- 200 bao thuốc lá nhãn hiệu ESSE SPECIAL GOLD(sau khi đã trừ đi 100 bao lấy mẫu giám định);
- 70 bao thốc lá nhãn hiệu BLEND NO 555 GOLD(sau khi đã trừ đi 30 bao lấy mẫu giám định)
- 100 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu ESSE CHANGE(sau khi đã trừ đi 20 bao lấy mẫu giám định).
- 80 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu ESSE LIGHT(sau khi đã trừ đi 20 bao lấy mẫu giám định).
- 30 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu ESSE SPECIAL GOLD(sau khi đã trừ đi 10 bao lấy mẫu giám định).
- 140 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu CANYON VANILLA(sau khi đã trừ đi 50 bao lấy mẫu giám định).
- 120 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu ZEST MARULA(sau khi đã trừ đi 30 bao lấy mẫu giám định).
- 150 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu BLEND NO 555 GOLD(sau khi đã trừ đi 50 bao lấy mẫu giám định).
- 100 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu ZEST(sau khi đã trừ đi 20 bao lấy mẫu giám định).
- 200 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu ZOUK(sau khi đã trừ đi 30 bao lấy mẫu giám định).
- 110 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu GEORGE KARELIAS AND SONS(sau khi đã trừ đi 20 bao lấy mẫu giám định).
Tang vật hiện giữa tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm theo biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 19/10/2020
5. Án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 222/2020/HSST ngày 03/11/2020 về tội buôn bán hàng cấm
Số hiệu: | 222/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về