TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐP, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 22/2024/HS-ST NGÀY 15/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 4 năm 2024, tại điểm cầu TT là Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội và điểm cầu thành phần là Trại tạm giam số 1, Công an Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai, trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 14/2024/TLST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2024/QĐXXST- HS ngày 02 tháng 4 năm 2024, đối với:
- Bị cáo: Cầm Ngọc Th, sinh năm 1989 tại thị xã NL, tỉnh Yên Bái; nơi cư trú và ĐKHKTT: Tổ Bản Lè, phường TT, thị xã NL, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cầm Ngọc Y (đã chết), con bà Hoàng Thị Ph; có vợ và 01 con sinh năm 2016; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 30/12/2020 bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 20 tháng (đã chấp hành xong ngày 18/08/2022); nhân thân: Ngày 06/09/2016 bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc; danh bản, chỉ bản số 434 do Công an huyện ĐP, Thành phố Hà Nội lập ngày 29/12/2023; Tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/12/2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an Thành phố Hà Nội; Bị cáo có mặt tại điểm cầu thành phần Trại tạm giam số 1, Công an Thành phố Hà Nội.
- Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1989; địa chỉ: Cụm 1, xã H, huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.
- Người tham gia tố tụng khác: Ông Tạ Văn D- Cán bộ Tòa án nhân dân huyện ĐP, thành phố Hà Nội.
Ông Hoàng Minh T- Cán bộ quản giáo Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Khoảng 13 giờ, ngày 23/12/2023 Cầm Ngọc Th đi bộ từ Nhà máy nước mặt Sông Hồng, thuộc địa phận xã LH, huyện ĐP đến cây xăng H thuộc xã H, huyện ĐP để tìm mua ma tuý. Tại đây Th gặp và mua của một người đàn ông không quen biết (không rõ đặc điểm nhân thân) 01 gói ma túy loại heroine với giá 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng). Th cầm gói ma túy heroine trong lòng bàn tay trái đi tìm nơi để sử dụng. Khi đi đến khu vực trạm Y tế xã LT thì bị lực lượng Công an xã LT kiểm tra phát hiện Th cầm 01 gói giấy bạc, bên trong có chứa chất bột màu trắng, Th khai là heroine vừa mua. Lực lượng Công an đã lập biên bản và đưa Th về trụ sở xác minh làm rõ.
Tại bản kết luận giám định số 8745/KL-KTHS ngày 31/12/2023 của Phòng PC09 - CATP Hà Nội kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 (một) gói giấy bạc, có khối lượng 0,206 gam là ma túy loại Heroin”.
Tại cơ quan điều tra, Th khai bản thân nghiện ma túy loại heroine từ năm 2019. Sau khi đi cai nghiện bắt buộc, bị cáo không sử dụng ma túy cho đến khoảng tháng 12 năm 2023 thì bị tái nghiện. Bị cáo sử dụng ma túy bằng cách chích trực tiếp vào cơ thể. Hàng ngày bị cáo đều phải sử dụng ma túy một lần. Bị cáo mua ma túy của những người khác nhau ở những nơi khác nhau. Bị cáo không quen biết với người đàn ông bán ma tuý ở khu vực cây xăng xã H. Số tiền mua ma tuý là do bị cáo lao động mà có.
Bản Cáo trạng số 16/CT-VKS- ĐP ngày 12/3/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐP, Thành phố Hà Nội truy tố Cầm Ngọc Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo Cầm Ngọc Th khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã khai trong quá trình điều tra. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐP tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Cầm Ngọc Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Cầm Ngọc Th từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù; Về vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐP đã thực hiện việc khởi tố điều tra, truy tố đúng thẩm quyền. Trình tự thủ tục tiến hành thu thập chứng cứ, nội dung và căn cứ ban hành các quyết định tố tụng, thực hiện hành vi tố tụng đều tuân thủ đúng các qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Cầm Ngọc Th khai nhận rõ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Cầm Ngọc Th nghiện ma túy loại heroine. Mặc dù đã bị Tòa án áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng Th vẫn không từ bỏ được việc sử dụng và phụ thuộc vào ma túy. Khoảng 13 giờ ngày 23/12/2023, Th đi bộ từ nơi làm việc là Nhà máy nước mặt Sông Hồng thuộc địa phận xã LH đến cây xăng xã H, mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy Heroine, khối lượng 0,206 gam với giá 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng) để sử dụng cho bản thân. Th cầm gói ma túy mua được trong tay đi tìm nơi sử dụng. Khi đi đến khu vực trạm Y tế xã LT thì bị lực lượng Công an xã LT kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang thu giữ gói ma túy của Th.
[3] Hành vi của Cầm Ngọc Th mua và cất giữ 0,206 gam ma túy loại Heroine để sử dụng như nêu trên đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐP truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy mà còn gây ra sự mất ổn định đối với trật tự trị an trên địa bàn huyện ĐP cũng như tình hình trật tự trị an xã hội nói chung.
[5] Ma túy là chất gây nghiện có tác hại rất lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, kinh tế của người sử dụng. Ma túy là một trong những tệ nạn nguy hiểm của xã hội. Nghiện ma túy là một trong những nguyên nhân gây ra các tội phạm hình sự khác. Đảng và Nhà nước ta kiên quyết bài trừ, loại bỏ tệ nạn ma túy ra khỏi cuộc sống. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình bị pháp luật cấm, đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc, mới chấp hành xong chưa lâu nhưng lại tái nghiện dẫn đến phạm tội. Vì vậy, cần phải xử bị cáo mức hình phạt nghiêm, cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung.
[6] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 BLHS; Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ là trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo là người dân tộc thiểu số. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử cân nhắc để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[7] Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, ngoài hình phạt chính còn quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét thấy, bị cáo là người nghiện ma túy không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[8] Người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không xác định được nhân thân nên không có cơ sở để xử lý.
[9] Về xử lý vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong theo quy định của pháp luật, còn nguyên niêm phong sẽ tịch thu tiêu hủy.
[10] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Cầm Ngọc Th 21 (Hai mươi mốt) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 23/12/2023.
2. Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bao gói sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội đã niêm phong theo quy định của pháp luật, còn nguyên niêm phong.
(Vật chứng hiện lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐP, theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/3/2024 giữa Công an huyện ĐP với Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐP, Thành phố Hà Nội).
3. Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Cầm Ngọc Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 22/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 22/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về