Bản án 22/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK GLONG, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 22/2024/HS-ST NGÀY 17/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17/4/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đ xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 17/2024/TLST-HS ngày 19/3/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2024/QĐXXST-HS ngày 25/3/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2024/HSST-QĐ ngày 05/4/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đ, đối với:

Bị cáo Mai Văn T (Có mặt), tên gọi khác: không, sinh năm 1973 tại tỉnh N; nơi đăng ký thường trú và chỗ ở trước khi phạm tội: thôn A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: làm nông; con ông Mai Thanh T (đã chết) và bà Đặng Thị H (sinh năm 1952), hiện đang ở xóm L, xã G, huyện G, tỉnh N; gia đình có 04 anh em bị cáo là con đầu; có vợ là Trần Thị M (sinh năm 1983); có 04 người con, con lớn sinh năm 2002 và con nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/01/2024, sau đó chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ, tỉnh Đ.

- Người làm chứng:

1. Anh Trần Văn G (Vắng mặt), sinh năm 1975 Nơi cư trú: thôn A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ.

2. Anh Nguyễn Văn L (Vắng mặt), sinh năm 1970 Nơi cư trú: thôn A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Mai Văn T, trú tại thôn A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ là người nghiện ma tuý. Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 19/01/2024, Mai Văn T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 48F1 – xxxxx, đi từ nhà đến cửa hàng bán phụ tùng máy nổ Trọng Tiến V ở cùng thôn để mua đồ về sửa máy nổ. Trên đường về, T gặp Thái Văn Đ (sinh năm 1982, trú tại bon K, xã Đ). Biết Đ là người nghiện ma tuý nên T hỏi mua 180.000 đồng ma túy. Sau khi nhận tiền, Điệp nói T khoảng 30 phút sau đến khu vực gốc ổi ngay mép đường ở bon K, xã Đ cách nhà Điệp khoảng 100 mét để lấy ma tuý, Điệp sẽ giấu ở dưới một nắp chai. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, T điều khiển xe mô tô đến vị trí như đã chỉ dẫn của Điệp thấy có 01 nắp chai nhựa màu vàng đặt úp dưới đất, sát gốc ổi; T lật nắp chai lên thấy bên dưới nắp chai có 01 gói nilon màu trắng, được hàn kín nhiệt hóa hai đầu, bên trong có chất ma túy; T lấy gói ma túy cất giấu bên trong lớp xốp của mũ bảo hiểm rồi điều khiển xe đi về. Khi T đi đến đoạn đường giáp khu vực vườn keo thuộc thôn A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ thì bị lực lượng Công an huyện Đ phát hiện, bắt quả tang thu giữ toàn bộ tang vật.

Tại Kết luận giám định số 69/KL-KTHS, ngày 26/01/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Đ, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nilon trong suốt được niêm phong trong bì thư ký hiệu “Mẫu T1” gửi giám định là ma túy, loại Heroine; có khối lượng mẫu là 0,1755 gam. Hoàn lại đối tượng sau khi giám định chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nilon trong suốt được niêm phong trong bì thư ký hiệu “Mẫu T1” có khối lượng là 0,1534 gam.

Tại Bản cáo trạng số 18/CT–VKS, ngày 18/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Glong đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Đ, để xét xử bị cáo Mai Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Glong tham gia phiên tòa sau khi phân tích, đánh giá tính chất của vụ án, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015:

- Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Mai Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và xử phạt từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/01/2024.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ đã có Quyết định xử lý vật chứng số 180A/QĐ-CSĐT ngày 28/02/2024 trả lại 01 xe mô tô biển kiểm soát 48F1 – xxxxx cho chị Trần Thị M là chủ sở hữu hợp pháp.

+ Trả lại cho bị cáo Mai Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu xanh đen bên trong có gắn sim số 091514xxxx;

+ Tịch thu, tiêu hủy: 0,1534 gam ma túy (Heroine) hoàn lại sau giám định, 01 mũ bảo hiểm màu đen trắng, 01 nắp chai nhựa màu vàng.

- Về án phí: Bị cáo Mai Văn T phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

- Đối với Thái Văn Đ không thừa nhận là người bán ma túy cho Mai Văn T, không có chứng cứ để chứng cứ hành vi mua bán ma túy của Đ. Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đ đã thu giữ 2,6547 gam ma túy và Đ hiện đã bị khởi tố, bị tạm giam để điều tra trong một vụ án khác.

Tại phiên tòa bị cáo không bào chữa hay tranh luận gì thêm, khi được nói lời sau cùng đã đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Tại phiên tòa, bị cáo Mai Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như diễn biến sự việc mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa.

[3]Hội đồng xét xử xét thấy: Ngày 09/01/2024, tại bon K, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ, bị cáo Mai Văn T đã mua 180.000 đồng ma túy (loại heroine) của Thái Văn Đ rồi cất giấu bên trong lớp xốp của mũ bảo hiểm để đem về nhà sử dụng. Đến 16 giờ 00 phút cùng ngày khi T đi đến đoạn đường tại thôn A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ thì bị lực lượng Công an huyện Đ phát hiện, bắt quả tang T đang tàng trữ trái phép 0,1755 gam ma túy (Heroine); hành vi này của bị cáo Mai Văn T đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý các chất ma túy của Nhà nước, bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự cho nên hành vi của bị cáo Mai Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

[4]Hành vi mà bị cáo Mai Văn T đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội và thuộc trường hợp nghiêm trọng, không những trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý các chất ma túy của Nhà nước mà còn gây ảnh hưởng rất xấu đến trật tự trị an tại địa phương, đồng thời đây cũng là tiền đề phát sinh các tệ nạn xã hội khác; do đó, cần phải được xử lý nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

[5]Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân:

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Mai Văn T đã T khẩn khai báo về hành vi phạm tội nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Về nhân thân của bị cáo: Tiền án, tiền sự không.

[6]Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy vẫn cần thiết phải cách ly bị cáo Mai Văn T ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định thì mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở T công dân có ích cho gia đình và xã hội; có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[7]Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

+ Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ đã có Quyết định xử lý vật chứng số 180A/QĐ-CSĐT ngày 28/02/2024 trả lại 01 xe mô tô biển kiểm soát 48F1 – xxxxx cho chị Trần Thị M là chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp nên cần chấp nhận.

+ Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu xanh đen bên trong có gắn sim số 091514xxxx đã thu giữ của bị cáo Mai Văn T nhưng không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo Mai Văn T.

+ Đối với 0,1534 gam ma túy (Heroine) hoàn lại sau giám định, 01 mũ bảo hiểm màu đen trắng và 01 nắp chai nhựa màu vàng cần tịch thu, tiêu hủy.

[8]Về án phí hình sự: Do bị cáo bị kết án nên bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[9]Đối với Thái Văn Đ không thừa nhận là người bán ma túy cho Mai Văn T, chưa có chứng cứ để chứng cứ hành vi mua bán ma túy của Đ. Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ đã khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đ đã thu giữ 2,6547 gam ma túy và Đ hiện đã bị khởi tố và đang bị tạm giam để điều tra trong một vụ án khác nên cần giao Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Thái Văn Đ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[10]Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ tại phiên tòa là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh, hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Mai Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Mai Văn T 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/01/2024.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ đã có Quyết định xử lý vật chứng số 180A/QĐ-CSĐT ngày 28/02/2024 trả lại 01 xe mô tô biển kiểm soát 48F1 – xxxxx cho chị Trần Thị M là chủ sở hữu hợp pháp.

+ Trả lại cho bị cáo Mai Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu xanh đen bên trong có gắn sim số 091514xxxx do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

+ Tịch thu, tiêu hủy: 0,1534 gam ma túy (Heroine) hoàn lại sau giám định, 01 mũ bảo hiểm màu đen trắng và 01 nắp chai nhựa màu vàng.

(Các vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/3/2024 giữa Công an huyện Đ và Chi cục THADS huyện Đ)

3. Về án phí hình sự: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Mai Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Glong - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;