Bản án 22/2024/HS-ST về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 22/2024/HS-ST NGÀY 02/02/2024 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 02 tháng 02 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Tp. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2024/TLST - HS ngày 22 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2024/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hồ Xuân A, sinh ngày 15/01/2000 tại Tp. Q, tỉnh B; Nơi cư trú: Tổ 1, khu phố 6, phường B, Tp. Q, tỉnh B; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Hồ Ngọc A, sinh năm 1972 và bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1971; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2024, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Tp. Q. (Có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Trần Duy V, sinh năm 2005. Trú tại: Tổ 3, khu phố 6, phường B, Tp. Q, tỉnh B. (Có mặt) Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1971. Trú tại: Tổ 1, khu phố 6, phường B, Tp. Q, tỉnh B. (Có mặt) Người làm chứng:

Ông Hồ Ngọc A, sinh năm 1972. Trú tại: Tổ 1, khu phố 6, phường B, Tp. Q, tỉnh B. (Có mặt) Em Võ Anh K, sinh ngày 05/9/2008. (Vắng mặt) Người đại diện hợp pháp: Ông Võ Thái L và bà Nguyễn Thị Xuân M (ông L, bà M là cha mẹ ruột của em K). (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 1, khu phố 6, phường B, Tp. Q, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Xuất phát từ ý định mua pháo nổ, pháo hoa về bán kiếm lời dịp Tết, khoảng giữa tháng 12/2023, Hồ Xuân A sử dụng mạng xã hội Facebook ứng dụng nhắn tin Messenger tên là “Hồ Xuân A” liên hệ với một đối tượng với tài khoản tên “Q” (không rõ lai lịch) đặt mua pháo hoa nổ và pháo nổ. A và “Q” thống nhất giá 01 hộp pháo hoa nổ loại 49 viên là 700.000 đồng, 01 bì pháo nổ loại 100 viên/bì là 450.000 đồng. A đặt mua 38 hộp pháo hoa nổ với giá tiền 26.600.000 đồng và 22 bì pháo nổ với giá tiền 9.900.000 đồng, tổng giá trị là 36.500.000 đồng.

Sau khi A đặt mua pháo khoảng 01 tuần, “Q” nhắn tin cho A hẹn giao pháo. “Q” hẹn A đến đoạn đường Long V – Long M, địa điểm gần nhà A để giao nhận pháo và thanh toán tiền. A đến điểm hẹn điều khiển xe mô tô hiệu Sirius gắn biển số 77L2-196.xx (do bà Nguyễn Thị H là mẹ của A là chủ sở hữu) đi một mình đến điểm hẹn và cầm theo 01 bì nhựa màu đen đựng số tiền 36.500.000 đồng như đã thoả thuận trước. Khi đến nơi, A đi đến chỗ 02 bao tải nhựa kiểm tra thì xác định đó là 02 bao chứa pháo. Do số lượng pháo nhiều nên A lấy bao chứa pháo nổ cất vào bụi cây bên vỉa hè, rồi để bì nhựa màu đen đựng số tiền 36.500.000 đồng xuống gần vị trí để 02 bao tải nhựa chứa pháo (theo yêu cầu của “Q”). Lúc này, chiếc xe tải chạy lại gần chỗ A để tiền, có 01 người nam thanh niên (mặt có đeo khẩu trang) xuống xe đi đến nhặt bì nhựa đựng số tiền 36.500.000 đồng lên kiểm tra và nói với A đã đủ tiền, lấy tiền xong người nam này lên lại ô tô có 01 người nam khác đang chờ sẵn điều khiển xe ô tô đi khỏi vị trí giao nhận pháo. Sau đó, A chở pháo về nhà ở Tổ 1, KP 6, P. B, TP. Q cất giấu.

Cùng với mục đích mua bán pháo nổ kiếm lời, Trần Duy V (sinh ngày:

01/6/2005, trú: Tổ 3, KP. 6, P. B, TP. Q) lên mạng facebook nói với một số người là V có thể đặt mua pháo. Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 27/12/2023, một đối tượng nam chưa rõ lai lịch sử dụng tài khoản Facebook tên “Đoàn Quốc K” nhắn tin cho tài khoản Facebook tên “Vũ T” của Trần Duy V để đặt mua 01 bì pháo nổ loại 100 viên. Do lúc này V chưa liên hệ được người có bán pháo nên V không trả lời.

Do có mối quan hệ quen biết với Hồ Xuân A nên chiều ngày 28/12/2023, Trần Duy V có gặp Hồ Xuân A hỏi về việc mua pháo thì A nói có 1 bì pháo nổ loại 100 viên cần bán với giá 700.000 đồng, nếu có người mua thì A bán cho V để V bán lại. V đồng ý lấy bì pháo nổ này của A để bán lại kiếm lời. Sau đó, V nhắn tin cho facebook tên “Đoàn Quốc K” đồng ý bán 01 bì pháo nổ loại 100 viên với giá 900.000 đồng thì “Đoàn Quốc K” đồng ý, hẹn gặp nhận hàng sẽ giao tiền. Khoảng 18 giờ 00 phút cùng ngày, A và V đi cùng nhau về nhà A để lấy pháo. Khi đến nhà A, V đứng ở ngoài cổng, còn A vào trong nhà lấy 01 bì pháo nổ loại 100 viên ra đưa cho V. Sau khi đưa pháo cho V, thì A lấy xe mô tô hiệu Sirius gắn biển số 77L2- 196.xx chở V lên quán cà phê “Tỉnh” ở gần khu chợ mới thuộc khu vực 7, phường B uống cà phê. Khoảng 19 giờ 00 cùng ngày, V mượn xe mô tô gắn biển số 77L2- 196.xx của A để đi về nhà và mượn điện thoại Iphone 12 Pro max màu vàng của A để đi liên hệ lấy tiền góp. Sau khi mượn được xe, V bỏ bì pháo nổ vào cốp xe 77L2- 196.xx và đi về nhà.

Khoảng 19 giờ 15 phút ngày 28/12/2023, Trần Duy V rủ Võ Anh K (sinh ngày: 05/9/2008) đi cùng để V giao pháo cho đối tượng tên “Đoàn Quốc K” nhưng V nói với K là đi lấy tiền góp và mua đồ ăn. V nhờ K điều khiển xe mô tô gắn biển số 77L2-196.xx chở V ngồi sau. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 28/12/2023, khi K chở V đến dừng tại số nhà 04 Mai Chí T thuộc Tổ 1, khu phố 7, phường T, TP Q để chờ giao pháo cho đối tượng tên “Đoàn Quốc K” thì bị Tổ tuần tra đảm bảo an ninh trật tự của Công an phường Trần Quang Diệu, TP Quy Nhơn đến kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, phát hiện trong cốp xe mô tô gắn biển số 77L2-196.xx có 01 bì pháo nổ. Công an phường Trần Quang Diệu đưa Khoa và V cùng tang vật về trụ sở làm việc.

Lúc 21 giờ cùng ngày, Công an phường Trần Quang Diệu phối hợp Công an phường B tiến hành kiểm tra tại nhà của Hồ Xuân A ở Tổ 1, khu phố 6, P. B, TP. Quy Nhơn phát hiện trong phòng ngủ của A có chứa 38 hộp pháo hoa nổ loại 49 viên và 21 bì nhựa chứa pháo nổ. Công an phường T tiến hành thu giữ số pháo này và đưa Hồ Xuân A cùng toàn bộ tang vật về trụ sở làm việc.

Tại cơ quan Công an Hồ Xuân A đã khai nhận toàn bộ hành vi mua bán pháo của mình.

Ngày 05/01/2024, Phân viện Khoa học hình sự tại Tp. Đà Nẵng có kết luận giám định số: 03/KL-KTHS của kết luận:

- 100 vật hình cầu (vỏ bằng nhựa nhiều màu sắc; đường kính 2,7cm; trên mỗi vật có gắn một đoạn dây màu xanh) đều là pháo nổ, tổng khối lượng là 0,49kg.

- 2100 vật hình cầu (vỏ bằng nhựa nhiều màu sắc; đường kính mỗi vật là 2,7cm; trên mỗi vật có gắn một đoạn dây màu xanh) đều là pháo nổ, tổng khối lượng là 8,81kg.

- 38 khối hộp (loại đúc liền khối, mỗi khối có kích thước 17,5cm x 17,5 x 10cm; bên ngoài bọc giấy màu, in hoa văn, chữ nước ngoài và có dòng chữ, số “T4049”; bên trong mỗi khối hộp có 49 vật hình trụ tròn vỏ giấy được liên kết với nhau) đều là pháo hoa nổ, tổng khối lượng là 66,4 kg.

Tổng khối lượng pháo nổ là 75,7 kg.

Vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Quy Nhơn đã tạm giữ: 0,49 kg pháo nổ, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro max, 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius 77L2-196.xx từ Trần Duy V; tạm giữ 8,81kg pháo nổ và 66,4kg pháo hoa nổ từ Hồ Xuân A.

Bản cáo trạng số: 34/CT-VKSQN ngày 22 tháng 01 năm 2024 Viện kiểm sát nhân dân Tp. Quy Nhơn truy tố bị cáo Hồ Xuân A về tội: “Buôn bán hàng cấm” theo điểm g khoản 2 Điều 190 của Bộ Luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Hồ Xuân A thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố, do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Hồ Xuân A về tội “Buôn bán hàng cấm”, quy định tại điểm g khoản 2 Điều 190 Bộ Luật hình sự. Đề nghị:

Về hình phạt: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 190, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hồ Xuân A từ 06 đến 07 năm tù.

Về phần xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ pháo hoa và pháo hoa nổ thu được.

- Trả lại cho chủ sở hữu: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius 77L2-196.xx cho bà Nguyễn Thị H; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro max cho bị cáo A nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo tự bào chữa: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không bào chữa. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định: Xuất phát từ ý định mua pháo nổ, pháo hoa về bán kiếm lời dịp Tết nên vào khoảng giữa tháng 12/2023, bị cáo Hồ Xuân A liên hệ một người tên “Q” không rõ lai lịch mua tổng cộng khối lượng pháo nổ 75,7 kg (trong đó: 9,3 kg pháo nổ và 66,4 kg pháo hoa nổ) nhằm mục đích bán lại kiếm lời. Ngày 28/12/2023, bị cáo bán 0,49 kg pháo nổ cho Trần Duy V với giá 700.000 đồng nhưng chưa thu tiền. Căn cứ Nghị định số: 137/2020/NĐ-CP ngày 27/11/2020 của Chính phủ quy định quy định về quản lý, sử dụng pháo thì pháo hoa nổ là pháo nổ.

Bị cáo A là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ pháo nổ là mặt hàng nhà nước cấm buôn bán, tàng trữ và vận chuyển nhưng chỉ vì chút lợi nhuận trước mắt mà bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Số pháo thu giữ của bị cáo dùng để mua bán có tổng khối lượng là 75,7 kg. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Tp. Quy Nhơn truy tố bị cáo A về tội: “Buôn bán hàng cấm” theo điểm g khoản 2 Điều 190 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền của nhà nước về quản lý, sản xuất kinh doanh, một số loại hàng cấm, nguy hiểm cho xã hội. Mặt khác hành vi của bị cáo còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội và việc quản lý kinh tế tại địa phương nên cần phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy rằng: Bị cáo có nhân thân tốt, từ trước đến nay không vi phạm gì. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo là bộ đội xuất ngũ nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật hình sự do vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 190 của Bộ luật hình sự thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Xét thấy tại phiên tòa bị cáo khai là lao động tự do, công việc không ổn định, thu nhập thấp nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về phần xử lý vật chứng:

Pháo nổ là vật bị nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy số pháo nổ bị thu giữ.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro max, điện thoại này thuộc quyền sở hữu của bị cáo, bị cáo không sử dụng điện thoại này để liên lạc mua và bán pháo nổ nên không phải là vật chứng của vụ án; do đó trả lại tài sản trên cho bị cáo A nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius 77L2-196.xx đây là tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của bà Nguyễn Thị H là mẹ của bị cáo A. Bị cáo nói mượn xe để đi công việc và ăn tối nhưng sử dụng để làm phương tiện vận chuyển và mua bán pháo nổ; bà H không biết bị cáo sử dụng xe này để vận chuyển mua bán pháo nổ nên không phải là vật chứng của vụ án; do đó trả lại tài sản cho bà H.

[7] Vấn đề khác:

Đối với Trần Duy V có hành vi mua 01 bì pháo nổ với khối lượng 0.49 kg của bị cáo Hồ Xuân A để bán lại kiếm lời. Tuy nhiên, khối lượng pháo nổ của V mua chưa đủ định lượng cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự nên V không phạm tội. Cơ quan CSĐT Công an Tp. Quy Nhơn đã chuyển hồ sơ vụ việc đến Công an Tp. Quy Nhơn để xử phạt hành chính đối với hành vi của Trần Duy V là có căn cứ.

Đối với Võ Anh K, vào tối ngày 28/12/2023, Trần Duy V rủ K đi thu tiền và mua đồ ăn, K không biết việc V chở K đi bán pháo nổ nên K không vi phạm pháp luật về hành vi mua bán 0,49 kg pháo nổ với V.

Đối với đối tượng tên “Q” bán pháo cho bị cáo Hồ Xuân A, Cơ quan CSĐT Công an Tp. Quy Nhơn chưa xác định được lai lịch người này nên Cơ quan CSĐT Công an Tp. Quy Nhơn sẽ tiếp tục điều tra và xử lý theo quy định.

[8] Về án phí: Theo quy định tại các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; bị cáo Hồ Xuân A phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 190; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 46 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào Điều 89, Điều 106, 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hồ Xuân A phạm tội: “Buôn bán hàng cấm”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Hồ Xuân A 06 (sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11/01/2024.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1 Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) hộp giấy dán kín, bên trong có chứa 90 vật hình cầu (vỏ bằng nhựa nhiều màu sắc; đường kính 2,7cm; trên mỗi vật có đoạn dây màu xanh), tổng khối lượng là 0,44kg. Hộp giấy được niêm phong bằng giấy trắng trên giấy có dấu đỏ của Phân viện Khoa học hình sự tại TP Đà Nẵng và chữ kí ghi họ tên: Lê Hồng P, Phan Thanh H, Trần Quốc Đ.

- 01 (một) thùng giấy dán kín, bên trong có chứa 2080 vật hình cầu (vỏ bằng nhựa nhiều màu sắc; đường kính 2,7cm; trên mỗi vật có đoạn dây màu xanh) với tổng khối lượng 8,72kg. Thùng giấy được niêm phong bằng giấy trắng trên giấy có dấu đỏ của Phân viện Khoa học hình sự tại TP Đà Nẵng và chữ kí ghi họ tên: Lê Hồng P, Phan Thanh H, Trần Quốc Đ.

- 02 (hai) thùng giấy dán kín, bên trong có chứa 38 khối hộp (loại đúc liền khối, mỗi khối có kích thước 17,5cm x 17,5 cm x 10cm; bên ngoài bọc giấy màu, in hoa văn, chữ nước ngoài và có dòng chữ, số "T4049"; bên trong có 49 vật hình trụ tròn vỏ giấy được liên kết với nhau). Tổng khối lượng là 66,4 kg. 02 thùng giấy được niêm phong bằng giấy trắng trên giấy có dầu đỏ của Phân viện Khoa học hình sự tại TP Đà Nẵng và chữ kí ghi họ tên: Lê Hồng P, Phan Thanh H, Trần Quốc Đ.

3.2 Trả lại tài sản: 01 (một) xe mô tô số loại: Sirius, nhãn hiệu: Yamaha, màu sơn: đen, số khung: RLCUE3740L Y074283; số máy: E32VE 259288, gắn biển số 7TL2-196.xx (đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong) cho chủ sở hữu bà Nguyễn Thị H.

01 (một) điện thoại IPHONE 12 PRO MAX màu Vàng (Gold), số IMEI: 356732119983474 (đã qua sử dụng, không kiếm tra chất lượng bên trong) cho bị cáo Hồ Xuân A nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 30 tháng 01 năm 2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự Tp. Quy Nhơn).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Hồ Xuân A phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

52
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2024/HS-ST về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:22/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;