TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 22/2024/DS-PT NGÀY 15/01/2024 VỀ TRANH CHẤP TÀI SẢN ĐẶT CỌC THEO HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN
Trong ngày 15 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 418/2023/TLPT-DS ngày 16 tháng 11 năm 2023 về “Tranh chấp tài sản đặt cọc theo hợp đồng mua bán tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 40/2023/DS-ST ngày 27 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ bị nguyên đơn kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 582/2023/QĐPT-DS ngày 18 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1 Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1968; địa chỉ: Số B, ấp T, thị trấn T, huyện V, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)
1.2 Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1963; địa chỉ: số H, ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Đăng T1, sinh năm 1979; địa chỉ: số A N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ. (có mặt)
2. Bị đơn: Ông Tôn Văn D, sinh năm 1975; địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)
3. Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị T là nguyên đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện cùng các tài liệu có trong hồ sơ và tại phiên toà nguyên đơn bà Nguyễn Thị N trình bày: Do có mối quan hệ quen biết nhau trong quá trình mua bán lúa tươi, nên vào ngày 19/01/2023 (âm lịch) bà Nguyễn Thị N, Nguyễn Thị T có thỏa thuận mua bán lúa với ông Tôn Văn D. Theo hợp đồng mua bán lúa tươi 02 bên thỏa thuận: Loại lúa mua bán là giống lúa ST25, giá mua là 7.400 đồng/kg, ngày 08/02/2023 (âm lịch) tiến hành gặt lúa bằng máy gặt đập liên hợp, lúa không bị mắc mưa, không bị dơ và xanh... để giao kết hợp đồng mua bán lúa tươi với ông D, phía bà T, bà N có đặt cọc số tiền 20.000.000 đồng cho ông Tôn Văn D. Tuy nhiên, trước ngày gặt lúa vào ngày 04/02/2023 (âm lịch) bà T có đến đồng để xem lúa đã chín như thế nào, thì bà T nói với ông D lúa còn xanh sẽ không chín kịp nhưng phía ông D cam kết đến ngày 08/02/2023 (âm lịch) thì lúa sẽ chín. Đến ngày 09/02/2023 (âm lịch) khi bà T, bà N đến nhận lúa thì phát hiện lúa ông D cắt còn xanh và bị dơ không thể nhận được và bà T, bà N có điện thoại cho ông D và chính quyền địa phương là phó ấp chứng kiến, phía chính quyền xác định lúa bị dơ và xanh. Tại thời điểm đó ông D không có mặt, nhưng ông D có nói nếu bà T, bà N không nhận thì để lúa cho ông D đem đi xay, còn tiền cọc nữa tính sau. Tuy nhiên, sau đó phía ông Tôn Văn D phủ nhận lời nói của mình và từ chối trả lại tiền cọc đã nhận là 20.000.000 đồng cho nguyên đơn. Do vậy, nguyên đơn đề nghị Tòa án xem xét buộc ông Tôn Văn D phải trả lại số tiền 20.000.000 đồng cho phía nguyên đã đã đặt cọc từ hợp đồng mua bán lúa tươi.
Bị đơn ông Tôn Văn D qua lời khai có trong hồ sơ và tại phiên tòa trình bày: Vào ngày 19/01/2023 (âm lịch) ông Tôn Văn D với bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị N có thỏa thuận mua bán lúa tươi tại ruộng. Hai bên có xác lập hợp đồng mua bán lúa tươi vào ngày 19/01/2023 (âm lịch), theo hợp đồng 02 bên có thỏa thuận các nội dung: Ông Tôn Văn D đồng ý bán cho bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị N lúa tươi chủng loại giống là ST25 với giá là 7.400 đồng/kg, định ngày 08/2/2023 (âm lịch) sẽ tiến hành gặt lúa, cam kết lúa không bị dơ, không bị xanh và không bị mắc mưa...để giao kết hợp đồng phía bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị N có đặt cọc số tiền 20.000.000 đồng cho ông Tôn Văn D. Hợp đồng được giao kết kể từ ngày 19/01/2023 (âm lịch) đến ngày 08/02/2023 (âm lịch). Trong quá trình thực hiện hợp đồng phía ông Tôn Văn D luôn tuân thủ các thỏa thuận ghi trong hợp đồng như gặt lúa đúng hạn, lúa không bị dơ, xanh và không bị mắt mưa.. .Tuy nhiên, phía bà T, bà N không chịu thu mua lúa như cam kết và viện lý do lúa bị xanh, dơ...nhưng thực tế là do giá lúa bị giảm so với thị trường nên bà T, bà N muốn hủy hợp đồng nếu tiếp tục thu mua lúa sẽ bị lỗ. Nay phía bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị N cho rằng ông Tôn Văn D vi phạm hợp đồng và đòi lại tiền đặt cọc đối với ông Tôn Văn D thì ông D không đồng ý, căn cứ theo hợp đồng bên vi phạm hợp đồng là bà T và bà N nên phải chịu mất cọc như đã giao kết.
Do các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết nên vụ kiện được đưa ra xét xử công khai.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 40/2023/DS - ST ngày 27 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ đã tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tranh chấp tài sản đặt cọc theo hợp đồng mua bán tài sản đối với bị đơn.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị T về việc yêu cầu ông Tôn Văn D phải trả số tiền đặt cọc 20.000.000 đồng từ hợp đồng mua bán tài sản.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm; quyền kháng cáo; quyền thi hành án và thời hiệu thi hành án của các bên đương sự.
Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện hợp pháp của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố cần Thơ phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật.
Về nội dung tranh chấp: Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa phúc thẩm đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 40/2023/DS - ST ngày 27 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị T: Theo đơn kháng cáo và lời trình bày của đại diện hợp pháp của bà T xác định, bà T yêu cầu Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cụ thể: Yêu cầu bị đơn trả lại cho nguyên đơn số tiền đặt cọc 20.000.000 đồng. Đại diện của nguyên đơn cho rằng: Bị đơn đã không thực hiện giao lúa đúng cam kết theo thỏa thuận tại Hợp đồng mua bán lúa tươi ngày 19/01/2023 (âm lịch) như lúa gặt bị xanh, gãy cọng, bị dơ nên nguyên đơn không đồng ý thu mua. Việc không thực hiện được hợp đồng mua bán là do lỗi phía bị đơn nên bị đơn phải hoàn trả lại cho nguyên đơn tiền đặt cọc. Bị đơn thì xác định lúa giao đúng cam kết nhưng do giá lúa tại thời điểm đó bị giảm nên nguyên đơn muốn hủy hợp đồng vì nếu thu mua thì sẽ bị lỗ nhiều hơn. Do đó, vấn đề cần xác định ai là người có lỗi trong việc dẫn đến Hợp đồng không thực hiện được.
[2] Nhận thấy, theo thỏa thuận tại Hợp đồng mua bán lúa tươi ngày 19/01/2023 (âm lịch) thì giữa nguyên đơn và bị đơn có thỏa thuận loại lúa mua bán là ST25, giá mua 7.400đồng/kg, lúa không bị mắc mưa, không bị xanh và dơ, không gãy cọng. Nguyên đơn cho rằng bị đơn giao lúa không đảm bảo đúng như thỏa thuận nhưng tại thời điểm cân lúa nguyên đơn không yêu cầu bị đơn đến không tiến hành lập biên bản, lưu giữ mẫu để đối chứng đồng thời cũng chưa có cơ quan chuyên môn nào xác định lúa bị dơ. Ngoài ra, nguyên đơn có cung cấp xác nhận của ông M (Phó ban nhân dân ấp), tuy nhiên ban xác nhận này cũng chưa phải là căn cứ đề xác định lúa bị xanh và dơ không đảm bảo theo đúng thỏa thuận bởi sự việc diễn ra ngày 08/02/2023 nhưng đến ngày 16/6/2023 nguyên đơn mới làm tường trình và ông M xác nhận ngày 15/6/2023 là chưa đảm bảo tính khách quan. Hơn nữa, theo thỏa thuận trong hợp đồng, trường hợp lúa không giống như giao kết ban đầu thì tính lại giá khác nhưng tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn xác định nguyên đơn và bị đơn không có thỏa thuận lại việc thu mua lúa.
[3] Từ những nhận định trên cho thấy nguyên đơn chưa có chứng cứ nào chứng minh lúa bị đơn giao không đúng như thỏa thuận trong hợp đồng nhưng đã tự ý không thu mua lúa là lỗi của nguyên đơn nên nguyên đơn phải chịu mất cọc. Bản án sơ thẩm đã tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở nên giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm. Nguyên đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình nên không được chấp nhận.
[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng. Bà T được chuyển tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng thành án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Điều 12, Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn - bà Nguyễn Thị T.
1. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 40/2023/DS - ST ngày 27 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ.
1.1. Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tranh chấp tài sản đặt cọc theo hợp đồng mua bán tài sản đối với bị đơn.
1.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị T về việc yêu cầu ông Tôn Văn D phải trả số tiền đặt cọc 20.000.000 đồng từ hợp đồng mua bán tài sản.
2. Về án phí dân sự:
2.1 Án phí dân sự sơ thẩm: 1.000.000 đồng (một triệu đồng). Bà Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị N mỗi người phải nộp 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng). Bà Nguyễn Thị N được khấu trừ vào số tiền 500.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0009898 ngày 05/5/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ thành án phí. Bà Nguyễn Thị T phải nộp số tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ.
2.2 Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Bà T được chuyển tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004584 ngày 09/8/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ thành án phí.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 22/2024/DS-PT về tranh chấp tài sản đặt cọc theo hợp đồng mua bán tài sản
Số hiệu: | 22/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về