Bản án 22/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 22/2023/HS-ST NGÀY 28/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 28 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 22/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2023. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2023/QĐXXST- HS ngày 15/11/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lý Pó X - Sinh năm 1993.

Nơi cư trú: bản N, xã N, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: La Hủ; Giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lý Mé X (đã chết) và bà Lỳ Gió M (đã chết); Bị cáo có vợ là Phản Na X1 - sinh năm 1995 và có 01 con sinh năm 2018; Gia đình bị cáo có 03 anh, chị em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Tiền sự: Không; Tiền án: bị cáo có 01 tiền án tại bản án hình sự sơ thẩm số 56/2018/HS- ST, ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 19/01/2023. Tính đến ngày phạm tội lần này, bị cáo chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/7/2023 cho đến nay (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: chị Lỳ Gạ N - sinh năm 1999

Nơi cứ trú: bản N, xã N, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 14/7/2023, Lý Pó X, sinh năm 1993 sau khi mượn được 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, màu sơn trắng đen, biển kiểm soát 25M1-144.68 của Lỳ Gạ N1, sinh năm 1999, cùng trú tại bản N, xã N, huyện Mường, X đã điều khiển xe máy đi đến bản Mô Chi, xã Pa Ủ để thăm con của X. Trên đường đi, tại khu vực bản N, xã N, Lý Pó X đã mua được của một người đàn ông dân tộc La Hủ lạ mặt 01 gói Thuốc phiện, bên ngoài được gói bằng mảnh nilon màu hồng với giá 250.000 đồng để sử dụng. Sau khi mua được Thuốc phiện X đã cầm Thuốc phiện trên tay trái rồi tiếp tục điều khiển xe máy đi đến bản M, xã P, huyện Mường Tè. Đến khoảng 20 giờ 00 phút cùng ngày, khi X đi đến khu vực bản Mô Chi, xã Pa Ủ thì gặp tổ công tác Đồn Biên phòng Pa Ủ yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Lúc này, do lo sợ nên X đã thả gói Thuốc phiện từ trong tay của X xuống đường, thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng Pa Ủ phát hiện và yêu cầu X nhặt gói Thuốc phiện lên để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, X đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nói trên. Tổ công tác Đồn Biên phòng Pa Ủ đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong toàn bộ vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận giám định tư pháp số 119/KLGĐ ngày 15/7/2023 của người giám định tư pháp theo vụ việc Công an huyện Mường Tè, đã kết luận: gói nilon màu hồng, chứa chất nhựa dẻo, màu nâu đen, có mùi hắc thu giữ của Lý Pó X có khối lượng là 4,25 gam.

Tại bản kết luận giám định số 893/KL-KTHS ngày 16/7/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 01 Mẫu chất nhựa dẻo, màu nâu đen, có mùi hắc thu giữ của Lý Pó X gửi giám định là ma túy, loại: Thuốc phiện.

Tại bản cáo trạng số 135/CT-VKS-MT ngày 11/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu đã truy tố Lý Pó X về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố phân tích các tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Tuyên bố bị cáo Lý Pó X phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" xử phạt bị cáo Lý Pó X mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu huỷ 01 mảnh nilon màu hồng.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Mường Tè, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Về tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo:

Xét lời khai nhận của bị cáo Lý Pó X tại phiên tòa ngày hôm nay phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu đã truy tố.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: khoảng 20 giờ 00 phút ngày 14/7/2023, tại bản Mô Chi, xã Pa Ủ, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, Lý Pó X đang có hành vi tàng trữ trái phép 4,25 gam Thuốc phiện để sử dụng thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng Pa Ủ phát hiện, bắt quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định.

Bị cáo Lý Pó X có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi nêu trên của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý đặc biệt về các chất ma tuý của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi tàng trữ trái phép 4,25 gam Thuốc phiện để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, mức hình phạt và các vấn đề khác liên quan là hoàn toàn có cơ sở, phù hợp với tính chất, mức độ cũng như hành vi phạm tội của bị cáo nên cần chấp nhận.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Nhân thân: bị cáo Lý Pó X là người nghiện chất ma túy. Bị cáo có 01 tiền án tại bản án hình sự sơ thẩm số 56/2018/HS- ST, ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 19/01/2023 tính đến ngày phạm tội mới bị cáo chưa được xoá án tích.

Tình tiết tăng nặng: ngày 31/10/2018 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 19/01/2023 tính đến ngày 17/7/2023 bị cáo tiếp tục phạm tội mới với lỗi cố ý khi chưa được xoá án tích. Do vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Tình tiết giảm nhẹ: tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên Hội đồng xét xử cần áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

Do bị cáo là người nghiện chất ma túy, hành vi của bị cáo là nghiêm trọng. Năm 2018 bị cáo đã bị Toà án nhân dân huyện Mường Tè xử phạt 3 năm 06 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" bị cáo mới chấp hành xong hình phạt nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội. Nên Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[4]. Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 triệu đồng, ... hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, công việc và thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng của vụ án: 4,25 gam Thuốc phiện Đồn biên phòng Pa Ủ đã gửi toàn bộ đi giám định, không hoàn lại mẫu vật nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết. 01 mảnh nilon màu hồng là vật bị cáo dùng vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. Chiếc xe máy bị cáo đã dùng để đi mua ma tuý quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của chị Lỳ Gạ N1, việc bị cáo dùng chiếc xe đi mua ma túy chị N1 không biết nên việc Cơ quan Điều tra đã ra quyết định trả lại chiếc xe máy cho chị N1 là hoàn toàn phù hợp.

[6]. Về những vấn đề khác:

Đối với người đàn ông dân tộc La Hủ lạ mặt mà theo lời khai đó là người bán ma tuý cho bị cáo đem về sử dụng: quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không xác định được người đó là ai nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét xử lý.

Chị Lỳ Gạ N1 là người đã cho bị cáo mượn xe máy nhưng chị N1 không biết việc bị cáo sử dụng chiếc xe máy để thực hiện hành vi phạm tội nên chị N1 không đồng phạm với X.

[7]. Về án phí: xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm b khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50; Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Tuyên bố bị cáo Lý Pó X phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Lý Pó X 01 năm 08 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 14/7/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy 01 mảnh nilon màu hồng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Mường Tè với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mường Tè được lập vào hồi 09 giờ 20 phút ngày 18 tháng 10 năm 2023)

4. Án phí: miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

5. Quyền kháng cáo: bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

73
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;