TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NĐ, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 22/2021/HS-ST NGÀY 29/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện NĐ, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/2021/TLST-HS, ngày 22 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2021 đối với:
Bị cáo: Võ Viết H. Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1994 tại huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm Thượng Nậm, xã HL, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Viết Hòa (chết) và bà Nguyễn Thị Khanh, sinh năm 1972; Vợ con: Chưa có, tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 26/10/2017, bị Công an huyện NĐ xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Ngày 28/11/2017, bị Tòa án nhân dân huyện NĐ, tỉnh Nghệ An xử phạt 07 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Đã chấp hành xong bản án vào ngày 03/11/2018; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2020 cho đến nay. Có mặt.
Bị cáo: Phan Đình V. Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1990 tại huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm 5, xã XL, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Đình Nam (đã chết) và bà Nguyễn Thị Hương, sinh năm 1965; Có vợ họ và tên: Hoàng Thị Nga và 02 con, sinh năm 2012 và 2013; tiền sự, tiền án: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2020 cho đến nay. Có mặt.
Bị cáo: Đậu Đình K. Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1993 tại huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm 5, xã XL, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đậu Đình Sính, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị Thanh, sinh năm 1966; Vợ, con: Chưa có; tiền sự, tiền án: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2020 cho đến nay. Có mặt.
Người làm chứng:
Anh Nguyễn Văn H. Sinh năm 1989. Nơi cư trú: Khối Phan Bội Châu, thị trấn NĐ, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
Anh Nguyễn Ngọc T. Sinh năm 1984. Nơi cư trú: Khối 7, thị trấn Con Cuông, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
Anh Nguyễn Thành L. Sinh năm 1987. Nơi cư trú: Khối 2, thị trấn Con Cuông, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng giữa tháng 10 năm 2020, khi đang đi làm công nhân tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng thì Đậu Đình K có nhặt được 01 gói giấy bên trong có chứa 3 viên nén màu xanh, biết đây là ma túy nên Kỳ lấy tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng gói lại cất vào ví của mình với mục đích khi nào đưa về quê sử dụng. Ngày 20/10/2020, Kỳ đang ở nhà của mình tại xóm 5, xã XL, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An thì có bạn cùng xóm là Phan Đình V đến chơi và hỏi nợ Kỳ số tiền 500.000 đồng đã vay trước đó. Kỳ chưa có tiền nên hẹn khi nào có sẽ trả sau. Khi Vương chuẩn bị ra về thì Kỳ nhớ đến 3 viên ma túy mình nhặt được nên muốn lấy cho Vương xem và nói “Em có cấy ni hay cực nầy” thì Vương nói “Cấy chi” thì Kỳ nói “Vô đây em cho coi”. Kỳ vào nhà lấy 3 viên ma túy cho Vương xem, Vương hỏi “Cấy chi đây”, Kỳ nói “Keo ke” (Ý nói đây là ma túy”. Lúc này thì Vương biết đây là ma túy nên nói với Kỳ “Rứa để anh cầm về cho” thì Kỳ đồng ý và nói “Bữa sau chơi kêu em với” (Ý nói khi nào sử dụng thì gọi Kỳ cùng sử dụng với). Vương cầm 3 viên ma túy về nhà cất dấu trong một túi ni lông màu hồng.
Đến khoảng đầu tháng 12 năm 2020, Võ Viết H đến nhà Vương chơi thì Vương lấy 3 viên ma túy ra cho Hoàng xem và nói “Anh có ba viên bây chơi không?”, Hoàng nói “Em không chơi mô” nên Vương cất 3 viên ma túy này. Ngày 15/12/2020, một người đàn ông tên Sơn liên lạc qua tài khoản mạng xã hội Facebook “Thụt HL” của Hoàng nhờ mua ma túy thì Hoàng đồng ý. Hoàng sử dụng tài khoản facebook của mình nhắn tin, gọi điện thoại vào tài khoản mạng xã hội facebook “Phan Vương” của Phan Đình V và hỏi “Anh có ba con đó nựa không?, hiểu ý của Hoàng hỏi là có 3 viên ma túy bữa trước đó nữa không nên Vương trả lời “Có”, Hoàng hỏi tiếp “Rứa ta bán té đi để không chơi mần chi” thì Vương đồng ý. Khoảng 19 giờ cùng ngày, Hoàng đến nhà Vương lấy ma túy đưa đi bán, Vương đưa 3 viên ma túy và hỏi “Từng ni bán mấy”, Hoàng đáp “Viên khoảng ba trăm” thì Vương nói “Ầy thì ba trăm”. Sau khi lấy được ma túy, Hoàng liên lạc qua tài khoản facebook của người đàn ông tên Sơn và hẹn giao ma túy tại thị trấn NĐ. Hoàng cầm 3 viên ma túy ngồi uống nước với hai người bạn ở huyện Con Cuông mới đến chơi là Nguyễn Thành L và Nguyễn Ngọc T tại quán cà phê Mộc thuộc xóm Thượng Nậm, xã HL, huyện NĐ. Khoảng 15 phút sau thì Hoàng gọi xe ô tô ta xi của anh Nguyễn Văn H đi từ quán cà phê đến thị trấn NĐ để giao ma túy cho Sơn (Luân và Tuấn không biết việc Hoàng đi giao ma túy vì Hoàng nói lên thị trấn NĐ ăn cháo đêm). Khi đến khu vực khối Phan Bội Châu, thị trấn NĐ thì bị công an huyện NĐ phát hiện bắt quả tang vào hồi 20 giờ 40 phút cùng ngày, thu giữ 01 túi màu hồng bên trong có chứa 3 viên nén ma túy màu xanh và các đồ vật liên quan.
Tại bản kết luận giám định số 18/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 19/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu viên nén màu xanh thu giữ của Võ Viết H gửi tới giám định là ma túy (MDMA), 03 (Ba) viên nén màu xanh thu giữ của Võ Viết H có tổng khối lượng là 1,22 g (một phẩy hai mươi hai gam).
Cáo trạng số 23/CT-VKSNĐ ngày 22/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện NĐ, tỉnh Nghệ An truy tố Võ Viết H và Phan Đình V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Truy tố Đậu Đình K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung cáo trạng, luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố các bị cáo Võ Viết H và Phan Đình V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tuyên bố bị cáo Đậu Đình K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, 58 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Võ Viết H mức án từ 28 tháng đến 30 tháng tù. Bị cáo Phan Đình V mức án từ 25 tháng đến 27 tháng tù.
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Đậu Đình K mức án từ 15 tháng đến 17 tháng tù.
Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo. Về xử lý vật chứng:
- 01 (Một) phong bì thư niêm được dán kín niêm phong, bên trong có chứa 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu xám đen, số Imei 354385068802138, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng của Võ Viết H;
01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, số Imei 352062062250919, màu trắng bên trong gắn thẻ sim có số thuê bao 0332826927, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng của Phan Đình V. Đây là các vật chứng của bị cáo Hoàng và Vương dùng để liên lạc cho việc bán ma túy, vật chứng còn giá trị sử dụng cần tịch thu và nộp ngân sách Nhà nước.
- 01 (một) phong bì thu niêm phong bên trong chứa 02 viên nén màu xanh là ma túy (MDMA) có tổng khối lượng 0,81 gam. Là vật chứng Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu và tiêu hủy; 01 túi ni lông màu hồng, 01 vỏ phong bì thư niêm phong ban đầu, các vật chứng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu và tiêu hủy.
Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, các bị cáo đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo không có tranh luận gì. Các bị cáo nói lời nói sau cùng: Rất ân hận về hành vi phạm tội của mình. Mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện NĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện NĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[2] Về việc vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt của người làm chứng tuy nhiên xét thấy không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử là có căn cứ, đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Về hành vi của các bị cáo: Tại phiên tòa, cả ba bị cáo đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Khoảng giữa tháng 10 năm 2020, Đậu Đình K đã có hành vi tàng trữ 03 viên ma túy (MDMA), có khối lượng 1,22 gam. Đến ngày 20/10/2020, Kỳ đưa số ma túy cho Phan Đình V cất dấu mục đích để sử dụng chung. Ngày 15/12/2020, Vương đưa ma túy cho Võ Viết H, giữa Hoàng và Vương thỏa thuận với nhau việc bán ma túy. Sau đó Hoàng liên lạc để bán cho một người đàn ông tên Sơn với giá 900.000 đồng (chín trăm nghìn) thì bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Đậu Đình K đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Hành vi của các bị cáo Võ Viết H và Phan Đình V đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[4] Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quy định về quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Làm mất trật tự trị an trên địa bàn, gia tăng tệ nạn xã hội và làm căn nguyên phát sinh các tội phạm khác. Vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy, vai trò đầu thuộc về bị cáo Hoàng là người có nhân thân xấu, là người chủ mưu trong việc liên lạc, tìm người mua, đưa ma túy đi bán kiếm lời. Vai trò sau thuộc về bị cáo Vương là đồng phạm hưởng ứng tích cực. Xét thấy: Cần lên một mức án nghiêm, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo riêng bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo Hoàng có ông nội được tặng thưởng Huy hiệu chiến sỹ Trường Sơn. Bị cáo Vương có ông nội được tặng thưởng Huân chương kháng chiến, em trai ông nội là người có công với cách mạng. Bị cáo Kỳ có ông nội được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạnh Nhất. Bị cáo Vương và Kỳ sau khi thực hiện hành vi phạm tội thì đến Công an đầu thú. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, do đó khi quyết định hình phạt nên xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng:
- 01 (Một) phong bì thư niêm được dán kín niêm phong, bên trong có chứa 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu xám đen, số Imei 354385068802138, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng của Võ Viết H;
01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, số Imei 352062062250919, màu trắng bên trong gắn thẻ sim có số thuê bao 0332826927, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng của Phan Đình V. Đây là các vật chứng của bị cáo Hoàng và Vương dùng để liên lạc cho việc mua bán ma túy, vật chứng còn giá trị sử dụng cần tịch thu và nộp ngân sách nhà nước.
- 01 (một) phong bì thu niêm phong bên trong chứa 02 viên nén màu xanh có tổng khối lượng 0,81 gam. Là vật chứng Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu và tiêu hủy; 01 túi ni lông màu hồng, 01 vỏ phong bì thư niêm phong ban đầu, là các vật chứng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu và tiêu hủy.
[7] Đối với người đàn ông tên “Sơn” là người liên lạc để mua ma túy của các bị cáo Hoàng và Vương. Do chưa xác định được danh tính cụ thể nên chưa có căn cứ xử lý, sẽ tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau. Đối với anh Nguyễn Văn H, anh Nguyễn Ngọc T và anh Nguyễn Thành L không biết bị cáo Hoàng đưa ma túy đi bán nên không có cơ sở xử lý là đúng quy định của pháp luật.
[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[9] Các đề nghị của Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện NĐ tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về điều luật áp dụng và tội danh: Tuyên bố các bị cáo Võ Viết H và Phan Đình V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo Đậu Đình K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, 58 của Bộ luật Hình sự; xử phạt:
Bị cáo Võ Viết H: 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/12/2020.
Bị cáo Phan Đình V: 25 (hai mươi lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2020.
- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Đậu Đình K: 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2020.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu và tiêu hủy:
- 01 (một) phong bì thu niêm phong bên trong chứa 02 viên nén màu xanh (ma túy: MDMA) có tổng khối lượng 0,81 gam; 01 túi ni lông màu hồng, 01 vỏ phong bì thư niêm phong ban đầu.
Tịch thu và nộp ngân sách nhà nước:
- 01 (Một) phong bì thư niêm được dán kín niêm phong, bên trong có chứa 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu xám đen, số Imei 354385068802138, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng của Võ Viết H;
01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, số Imei 352062062250919, màu trắng bên trong gắn thẻ sim có số thuê bao 0332826927, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng của Phan Đình V (Đặc điểm, tình trạng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/3/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện NĐ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện NĐ tỉnh Nghệ An).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Võ Viết H, Phan Đình V và Đậu Đình K mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Võ Viết H, Phan Đình V và Đậu Đình K có quyền kháng cáo bản án đến Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 22/2021/HS-ST ngày 29/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 22/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nam Đàn - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về