Bản án 22/2021/HS-ST ngày 23/02/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 22/2021/HS-ST NGÀY 23/02/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 23 tháng 02 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 12/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị H - Sinh: 1965;Nơi cư trú: Đội 8A, N, N1, K, Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/10; Họ và tên cha: Nguyễn Văn S- Đã chết; Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị T- Đã chết; Gia đình có 08 chị em bị cáo là con thứ 4; Có chồng tên là: Nguyễn Văn Đại – Sinh 1960; Có 02 con, con lớn sinh 1985, con bé sinh 1988;Tiền án, tiền sự: không; Bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 09/11/2020, đến ngày 12/11/2020 hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giữ. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

-Anh Lê Đức L– Sinh năm 2000 Địa chỉ:Tổ 10, khu M, Minh Phương, F1, Phú Thọ

-Anh Nguyễn Bá K2 – Sinh năm 2001 Địa chỉ: Thôn Q, xã X, huyện K, thành phố Hà Nội

(Bị cáo H có mặt tại phiên tòa. Anh L, K2 vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 55 phút ngày 09/11/2020 tại quán bán nước của Nguyễn Thị H ở thôn N, N1, K, Hà Nội, tổ công tác đội Cảnh sát hình sự - Công an huyện K kiểm tra phát hiện Nguyễn Thị H đang thực hiện hành vi bán số lô đề cho Lê Đức L- Sinh: 2000, trú tại: tổ 30, khu M, Minh Phương, F1, Phú Thọ, gồm các số lô: 01, 10, 02, 20, 22 mỗi số x 20 điểm và các số đề: 01, 10, 02, 20, 22 mỗi số x 50.000 đồng với tổng số tiền là 2.550.000 đồng; bán cho Nguyễn Bá K2, sinh: 2001, trú tại: Q, X, K, Hà Nội gồm các số lô: 35, 53 mỗi số x50 điểm và các số đề: 35, 53 mỗi số x 200.000 đồng với tổng số tiền là: 2.700.000 đồng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và đưa H cùng các đối tượng liên quan về trụ sở để làm rõ.

Vật chứng thu giữ:

- 02 (hai) bảng ghi lô đề H bán cho khách ngày 09/11/2020.

- 01 (một) cáp lô đề H bán cho L ngày 09/11/2020.

- 01 (một) cáp lô đề H bán cho K2 ngày 09/11/2020.

- Số tiền: 5.300.000 đồng (năm triệu ba trăm nghìn đồng).

Ngày 10/11/2020, Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thị H tại thôn N, N1, K, Hà Nội nhưng không phát hiện thu giữ vật chứng gì liên quan đến hành vi phạm tội của H Tại Cơ quan điều tra, bị can Nguyễn Thị H khai nhận: H bắt đầu bán số Lô, Đề từ ngày 03/11/2020 và trực tiếp thanh toán tiền thắng, thua với khách. H quy định cách chơi và tiền trả thưởng với khách như sau: Khách sẽ chọn mua số Lô, số Đề bất kỳ từ số 00 đến 99 với số tiền tùy ý. Nếu số Đề mà khách mua trùng với hai số cuối của giải đặc biệt (kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày) thì sẽ trúng và được trả gấp 80 lần số tiền đã mua số đó (1x 80). Đối với Lô đơn khách mua 1 điểm Lô phải trả cho H là 23.000 đồng. Nếu số Lô đơn mà khách mua trùng với 02 số cuối của tất cả các giải trong kết quả sổ xố miền Bắc, kể cả giải đặc biệt trong ngày thì sẽ trúng và được trả 80.000 đồng/ 01 điểm lô. Đối với Lô xiên 2, Lô xiên 3, Lô xiên 4 khách mua 01 điểm lô xiên thì phải trả cho H 10.000 đồng. Nếu hai số Lô khác nhau mà khách mua trùng với 02 số cuối của tất cả các giải trong kết quả sổ xố miền Bắc kể cả giải đặc biệt ra trong ngày thì người chơi được gấp 10 lần số tiền đã mua; Về Lô xiên 3: Nếu ba số Lô khác nhau mà khách mua trùng với 03 số cuối của tất cả các giải trong kết quả sổ xố miền Bắc kể cả giải đặc biệt ra trong ngày thì người chơi được gấp 40 lần số tiền đã mua; Về Lô xiên 4: Nếu bốn số Lô khác nhau mà khách mua trùng với 04 số cuối của tất cả các giải trong kết quả sổ xố miền Bắc kể cả giải đặc biệt ra trong ngày thì người chơi được gấp 100 lần số tiền đã mua. Khi mua số Lô, số Đề, người chơi sẽ đọc số để H ghi các con số và số tiền người chơi mua vào một tờ giấy, gọi là “Bảng”, sau đó tiếp tục ghi vào một mảnh giấy nhỏ, gọi là “cáp”. Sau khi có kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày, nếu người chơi mà trúng sẽ mang “cáp” đến thanh toán tiền trúng thưởng với H. Đến khoảng 17 giờ 45 phút ngày 09/11/2020, H đã bán cho Lê Đức L các số lô: 01, 10, 02, 20, 22 mỗi số x 20 điểm và các số đề:

01, 10, 02, 20, 22 mỗi số x 50.000 đồng và bán cho Nguyễn Bá K2 các số lô: 35, 53 mỗi số x50 điểm và các số đề: 35, 53 mỗi số x 200.000 đồng thì bị cơ quan Công an bắt quả tang cùng vật chứng.

Tại Kết luận giám định số 10518/KLGĐ-PC09-Đ4 ngày 07/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội: “ Chữ viết, chữ số trên các mẫu cần giám định (Ký H từ A1 đến A4) với chữ viết, chữ số đứng tên Nguyễn Thị H trên các mẫu so sánh (ký H từ M1 đến M5) là chữ do cùng một người viết ra.

Quá trình điều tra, đã xác định được ngày 09/11/2020, H đã bán số Lô, số Đề cho L, K2 và những người khác không biết tên, tuổi, địa chỉ với tổng số tiền là 15.040.500 đồng (trong đó tiền đề là 2.438.000 đồng, tiền lô đơn là 11.672.500 đồng, tiền lô xiên là 930.000 đồng).

Ngày 21/12/2020, H đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan CSĐT- Công an huyện K số tiền 9.740.500 đồng là tiền do H bán số lô, số đề ngày 09/11/2020.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thị H khai nhận: H bán số Lô, số Đề từ ngày 03/11/2020. Ngoài lời khai của H, không có tài liệu nào khác chứng minh, do vậy không có cơ sở kết luận Nguyễn Thị H có hành vi đánh bạc nhiều lần.

Tổng số tiền Lê Đức L đã dùng vào việc đánh bạc là 2.550.000 đồng, số tiền Nguyễn Bá K2 đã dùng vào việc đánh bạc là 2.700.000 đồng. Xét hành vi của L và K2 chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện K đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Lê Đức L và Nguyễn Bá K2.

Đối với những người đã mua số Lô, số Đề của H ngày 09/11/2020 nhưng H không biết tên, địa chỉ. Do vậy Cơ quan điều tra Công an huyện K, không có căn cứ để xử lý.

Tại bản cáo trạng số 17/CT-VKSGL ngày 29/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 và Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015 ; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo H mức án từ 10 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời hạn thử thách từ 20 đến 24 tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Nguyễn Thị H cho UBND xã N1, K, Hà Nội, để giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Về hình phạt bổ sung : Không áp dụng.

Về xử lý vật chứng:

Cho tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 15.040.500 đồng.

Nói lời sau cùng bị cáo nhận thấy việc làm của bản thân là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét mở lượng khoan hồng cho bị cáo mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về thủ tục tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2].Về tội danh và tình tiết định khung hình phạt:

Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ và nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Với mục đích sát phạt bằng tiền thể hiện bằng việc ngày 09/11/2020 Nguyễn Thị H trực tiếp bán số Lô, Đề thanh toán tiền thắng, thua cho khách trong đó có anh Lê Đức L và Nguyễn Bá K2 và những người chơi khác với số tiền là:15.040.500 đồng thì bị Công an huyện K phát hiện bắt quả tang cùng tang vật. Hội đồng xét xử thấy có căn cứ nên nhận định Nguyễn Thị H có hành vi đánh bạc trái phép sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức mua bán số Lô, Đề. Số tiền bị cáo H phải chịu trách nhiệm với hành vi đánh bạc trái phép ngày 09/11/2020 là: 15.040.500 đồng. Hành vi của bị cáo cấu thành tội “ Đánh bạc”, vi phạm khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố bị cáo về tội danh nêu trên là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng và nếp sống văn hóa mới, gây ảnh hưởng đến kinh tế của nhiều gia đình nhưng bị cáo vẫn thực hiện là thể hiện sự coi thường pháp luật. Do vậy cần phải xử lý bằng một bản án hình sự đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[3].Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét, tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhân thân chưa có tiền án tiền sự nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i; s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên HĐXX chỉ cần xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H hưởng án treo theo Điều 65 Bộ luật Hình Sự năm 2015 là có căn cứ và cũng đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng mức hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX.

[4].Về hình phạt bổ sung:

Bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đại diện VKS đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của HĐXX.

[5].Về xử lý vật chứng:

Cho tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 15.040.500 đồng Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử lý vật chứng phù hợp với nhận định của HĐXX.

[6] Đối với Lê Đức L và Nguyễn Bá K2 là người mua số Lô, Đề của H ngày 09/11/2020, xét hành vi của L và K2 chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện K đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với L và K2 là đúng quy định của pháp luật.

Đối với những người khác đã mua số Lô, Đề của H ngày 09/11/2020 nhưng H không biết tên, địa chỉ. Do vậy Cơ quan điều tra Công an huyện K, không có căn cứ để xử lý là có cơ sở đúng quy định của pháp luật.

[7] . Về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 – Bộ luật Tố tụng hình sự và người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Đánh bạc ”

1. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i ; s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015.

- Xử phạt : Nguyễn Thị H 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18(Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Thị H cho UBND xã N1, K, Hà Nội, để giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

2. Áp dụng khoản 5 Điều 65 BLHS: Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3.Về hình phạt bổ sung : Không áp dụng

4.Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 15.040.500 đồng (Có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K theo biên lai thu tiền số 2030 ngày 23/02/2021) ).

5. Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 135; Điều 136 bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa .

Bị cáo Nguyễn Thị H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

6 . Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trực tiếp về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 n gày, kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

360
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2021/HS-ST ngày 23/02/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:22/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;