TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG LÔ, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 22/2021/HSST NGÀY 17/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 17 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở UBND xã Quang Yên, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:18/2021/TL-HSST ngày 08/4/2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2021/QĐXXST-HS ngày 05/5/2021, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn L, sinh ngày 01/4/1962 Nơi cư trú: TDP Phú Chiền, thị trấn Lập Thạch, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/10; bố đẻ: Nguyễn Văn T, sinh năm 1907, đã chết; mẹ đẻ: Bùi Thị Ng, sinh năm 1912, đã chết; vợ: Khổng Thị Kh, sinh năm 1963, cán bộ hưu, sinh sống tại thị trấn Lập Thạch, huyện Lập Thạch; con: có 02 con, lớn sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 1990; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/12/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ L quan:
1. Nguyễn Thanh S, sinh năm 1989 Nơi cư trú: thôn Yên Mỹ, xã Tứ Yên, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt.
2. Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1990 Nơi cư trú: TDP Phú Chiền, thị trấn Lập Thạch, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.
Người làm chứng: Bà Trần Thị Kim L, sinh năm 1965 Nơi cư trú: thôn Yên Mỹ, xã Tứ Yên, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 40 phút ngày 25/12/2020, Nguyễn Thanh S gọi điện thoại cho Nguyễn Văn L hỏi “Có ma tuý không bán cho cháu 500.000đ?” L đồng ý. L và S hẹn nhau ở vị trí cổng trào thuộc thôn Quyết Thắng, xã Đồng Thịnh, huyện Sông Lô. Sau đó L một mình điều khiển xe máy biển kiểm soát 29G1-209.64 từ nhà đến gặp S. Khi gặp S, L bảo S đưa tiền. S đưa cho L 500.000đ (gồm 02 tờ tiền polime mệnh giá 200.000đ và 02 tờ tiền polime mệnh giá 50.000đ). L cầm tiền và bảo S chờ L ở vị trí đó. L điều khiển xe máy đi được một đoạn thì gặp một người đàn ông không rõ tên tuổi hỏi mua ma túy của người này. Người này đồng ý và bán cho L 01 gói ma túy với giá 500.000đ. L cầm ma túy trong lòng bàn tay trái với mục đích cắt lại một ít để sử dụng, phần còn lại bán cho S. Tuy nhiên, khi vừa đến vị trí hẹn với S thì bị công an huyện Sông Lô bắt quả tang. Do hoảng sợ, L ném gói ma tuý xuống nền đường bê tông gần vị trí L đứng. Lực lượng công an huyện Sông Lô đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ: 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy lịch màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng ở nền đường bê tông gần vị trí L đứng. L khai nhận đây là gói ma tuý vừa mua được mang về bán cho S, được niêm phong trong phong bì kí hiệu A1; 01 điện thoại di động Nokia loại bàn phím, vỏ màu xám của L; 01 xe máy nhãn hiệu Vespa biển kiểm soát 29G1- 209.64 của L; 01 điện thoại di động Nokia loại bàn phím, vỏ màu đen của S.
Tại Kết luận giám định số 3327/KLGĐ ngày 28/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột, cục màu trắng của mẫu kí hiệu A1 gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 0,2891g, loại Heroine.
Về nguồn gốc số ma túy, L khai nhận mua của một người đàn ông, không biết tên tuổi địa chỉ cụ thể ở khu vực đoạn đường xã Đồng Thịnh, huyện Sông Lô. Cơ quan CSĐT công an huyện Sông Lô đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không làm rõ được.
Đối với Nguyễn Thanh S là người nghiện chất ma túy. Ngày 25/12/2020, S chưa nhận được ma túy từ L. S tự khai nhận mình bị nghiện ma túy, bản thân S chưa có tiền án, tiền sự về tội phạm ma túy. Vì vậy, Cơ quan CSĐT công an huyện Sông Lô đã có văn bản thông báo, trao đổi để chính quyền địa phương xã Tứ Yên, huyện Sông Lô xem xét áp dụng các biện pháp xử lý hành chính.
Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Vespa biển kiểm soát 29G1-209.64, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp của xe là chị Nguyễn Thị Thu H là con gái ruột của L. Ngày 25/12/2020, chị H đi làm, để xe máy ở nhà. L tự ý sử dụng chiếc xe trên. Chị H không biết việc L sử dụng chiếc xe trên làm p H tiện để đi mua bán trái phép chất ma túy. Vì vậy, cần trả lại chiếc xe trên cho chị H.
Tại bản cáo trạng số: 19/CT-VKS ngày 06 tháng 4 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô truy tố Nguyễn Văn L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên – đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô luận tội đối với bị cáo Nguyễn Văn L. Giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Sau khi đánh giḠtính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn L từ 24 tháng đến 27 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 25/12/2020.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu của bị cáo L 01 điện thoại di động Nokia loại bàn phím, vỏ màu xám; thu của S 01 điện thoại di động Nokia loại bán phím, vỏ màu đen để bán sung quỹ nhà nước.
Trả lại chị Nguyễn Thị Thu H 01 xe máy nhãn hiệu Vespa biển kiểm soát 29G1-209.64 màu trắng.
Tịch thu để tiêu hủy mẫu ký hiệu A1 = 0,2891g heroine, hoàn lại = 0,2185g do cơ quan giám định hoàn lại sau giám định.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn L khai nhận toàn bộ hành vi ngày 25/12/2020 bán cho Nguyễn Văn S 01 gói ma túy với giá 500.000đ thì bị Công an huyện Sông Lô bắt quả tang và thu giữ tang vật chứng, như nội dung bản cáo trạng đã nêu là đúng, ngoài ra không có lời bào chữa nào khác.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Lô, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng pháp luật.
[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện: Khoảng 18 giờ 40 phút ngày 25/12/2020, Nguyễn Thanh S gọi điện thoại cho Nguyễn Văn L hỏi mua ma túy. L đồng ý và hẹn gặp S ở vị trí cổng thuộc thôn Quyết Thắng, xã Đồng Thịnh, huyện Sông Lô. Tại đây, L cầm 500.000đ của S và đi mua được 0,2891g ma túy. Sau khi mua được ma túy, L quay lại vị trí ban đầu, chưa kịp bán ma túy cho S thì bị Công an huyện Sông Lô bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.
Xét lời nhận tội của Nguyễn Văn L phù hợp với các lời khai, bản kiểm điểm của bị cáo, lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ L quan, tang vật chứng đã thu giữ được, biên bản phạm pháp quả tang và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được thể hiện trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Điều luật quy định: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.” Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là táo bạo, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây dư luận bất bình trong nhân dân. Mặc dù các hành vi L quan đến ma tuý đã được tuyên truyền giáo dục nhiều, song các tội phạm trên cũng chưa giảm, diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn. Bản thân bị cáo L còn là đối tượng nghiện ma túy, như vậy cần xét xử thật nghiêm minh trước pháp luật với mức án tù để cải tạo giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe giáo dục, phòng ngừa chung.
Xét về nhân thân bị cáo L thấy rằng: Bản thân bị cáo vào năm 2007 đã bị TAND huyện Lập Thạch xử phạt 5.000.000đ về tội “Đánh bạc”, đã được xóa án tích. Nhưng qua lần xử lý đó bị cáo không lấy đó làm bài học để tự tu dưỡng rèn luyện bản thân mà lại phạm tội do lỗi cố ý. Tuy nhiên khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét đến tình tiết trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; vợ bị cáo trong quá trình công tác tại huyện Sông Lô đã có nhiều thành tích trong công tác được tặng thưởng nhiều bằng khen, giấy khen... nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét thấy cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định, như vậy mới đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng .... hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên theo tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có việc làm ổn định, không có thu nhập. Vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[3] Về xử lý vật chứng vụ án gồm có: 01chiếc xe máy nhãn hiệu Vespa biển kiểm soát 29G1-209.64, là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị Thu H là con gái của L. Chị H không biết việc L sử dụng chiếc xe trên làm p H tiện để đi mua bán trái phép chất ma túy, do vậy cần trả lại cho chị H chiếc xe.
01 điện thoại di động Nokia vỏ màu xám của L; 01 điện thoại di động Nokia vỏ màu đen của S dùng để trao đổi mua bán trái phép chất ma tuý nên cần tịch thu bán sung quỹ Nhà nước.
Đối với 01 bao gói mẫu ký hiệu A1 = 0,2891g heroine, hoàn lại = 0,2185g do cơ quan giám định hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.
4] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn L 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 25/12/2020.
Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Trả lại chị Nguyễn Thị Thu H 01 xe máy nhãn hiệu Vespa màu trắng biển kiểm soát 29G1-209.64.
Tịch thu của bị cáo L 01 điện thoại di động Nokia vỏ màu xám; thu của S 01 điện thoại di động Nokia vỏ màu đen để bán sung quỹ Nhà nước.
Tịch thu để tiêu hủy mẫu ký hiệu A1 = 0,2185g do cơ quan giám định hoàn lại sau giám định.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ L quan có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ L quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày giao nhận bản án hoặc niêm yết tại UBND nơi cư trú của người vắng mặt.
Bản án 22/2021/HSST ngày 17/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 22/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sông Lô - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/06/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về