TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 22/2021/HS-ST NGÀY 11/05/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 11 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2021/QĐXXST - HS ngày 28 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:
Đào Xuân C, sinh ngày 29-5-2003 tại Nam Định.
Nơi cư trú: Xóm 7, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Xuân C và bà Nguyễn Thị D; Chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 03-5-2019, bị Công an thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo về hành vi xâm phạm sức khỏe người khác; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31-01-2021 cho đến nay. “có mặt”.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Đào Xuân C đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đào Xuân C, sinh năm 1973; nơi cư trú: Xóm 7, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định. “có mặt”.
- Người bào chữa cho bị cáo Đào Xuân C: Bà Bùi Tố Q - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Nam Định. “có mặt”.
- Bị hại:
+ Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1995; nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện V, tỉnh Nam Định. “vắng mặt”
+ Anh Nguyễn Sơn T, sinh năm 1998; nơi cư trú: Thôn D, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định. “vắng mặt”.
- Người tham gia tố tụng khác:
Người làm chứng:
+ Anh Vũ Ngọc T. “vắng mặt” + Anh Vũ Ngọc Q. “vắng mặt” + Anh Vũ Đức D. “vắng mặt” + Anh Vũ Ngọc M. “vắng mặt” + Anh Bùi Văn N. “vắng mặt” + Anh Nguyễn Đức H. “vắng mặt” + Chị Vũ Diệu Thùy L. “vắng mặt” Người đại diện hợp pháp của chị L là: Bà Phạm Thị H; “vắng mặt” + Anh Vũ Đình T. “vắng mặt” Người đại diện hợp pháp của anh T là: Bà Nguyễn Thị M “vắng mặt” + Anh Lại Văn Đ. “vắng mặt” + Anh Mai Huy B. “vắng mặt” + Anh Vũ Văn T. “vắng mặt” + Anh Lại Hữu T. “vắng mặt” + Anh Vũ Văn L. “vắng mặt” + Anh Đỗ Đình L. “vắng mặt” + Anh Lại Văn V. “vắng mặt” + Anh Lại Đức K. “vắng mặt” + Chị Đỗ Thị Hoài T. “vắng mặt” + Anh Lại Trọng K. “vắng mặt” Người đại diện hợp pháp của anh K là: Ông Lại Văn N “vắng mặt” + Anh Nguyễn Trọng L. “vắng mặt” Người đại diện hợp pháp của anh L là: Bà Phạm Thị L. “vắng mặt” + Anh Nguyễn Quang T. ““vắng mặt” Người đại diện hợp pháp của anh T là: Ông Nguyễn Đức C. “vắng mặt” + Anh Mai Đăng H. “vắng mặt”.
Người đại diện hợp pháp của anh H là: Bà Lưu Thị Thanh L “vắng mặt” + Anh Vũ Ngọc N. “vắng mặt”.
+ Anh Đoàn Văn T. “Vắng mặt”
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tối ngày 21-12-2020, gia đình ông Vũ Đình C ở thôn Đ, xã Đ, huyện V, tỉnh Nam Định có tổ chức đám cưới cho con gái là chị Vũ Diệu Thùy L. Quá trình tổ chức đám cưới có nhiều người đến ngồi chơi uống nước và hát Karaoke tại sân. Trong đó có Nguyễn Văn D, Nguyễn Sơn T, Vũ Ngọc Q, Vũ Ngọc T, Vũ Đức D, Bùi Văn N, Vũ Đình T và một số người khác nữa. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày thì chú rể là anh Mai Huy B cùng với 20 người bạn đến nhà cô dâu để ngồi chơi và uống nước tại sân đám cưới. Trong lúc anh Bùi Văn N đang hát Karaoke thì Đào Xuân C (Là người đi cùng nhóm với Mai Huy B) lên hỏi N để xin cắm nhạc DJ từ máy tính mang theo cho thanh niên tại đám cưới nhảy. N bảo mọi người hát đã và không đồng ý cho C cắm nhạc. Vì vậy, giữa hai bên đã xảy ra cãi chửi nhau trên bục sân khấu của đám cưới. Lúc này, Nguyễn Văn D là bạn của N đang ngồi uống nước tại bàn gần bục sân khấu có cầm chiếc đĩa bằng sứ màu trắng trên mặt bàn ném trúng vào đầu của C, làm đĩa sứ rơi xuống vỡ trên bục sân khấu. Sau khi bị ném thì C cúi xuống lấy tay ôm đầu. D đi đến gần chỗ C để đấm C thì bị C rút 01 con dao nhọn (Có đặc điểm bằng sắt, mũi nhọn, lưỡi dài khoảng 13cm, chuôi dài khoảng 14cm), để trong túi quần mang theo từ trước đâm 01 nhát trúng vào bụng của D làm D bị thương, ôm bụng bỏ chạy ra ngoài ngõ. Lúc này, Vũ Ngọc Q, Nguyễn Sơn T, Vũ Đình T và một số người khác đi đến chỗ C, dùng tay đẩy C, T nói “Đám cưới nhà người ta mà lại đánh nhau như vậy là không được”. Q định đánh C thì bị C cầm dao nhọn đâm trúng 01 nhát vào sườn trái của T và đâm 01 nhát trúng vào đùi chân trái của Q. Sau khi đâm T và Q xong thì C bỏ chạy ra ngõ, lúc này có người hô “Nó có dao đấy” thì Vũ Đức D đang đứng ở cổng của đám cưới cũng hô “Bắt nó lại” đồng thời đứng ra giữa cổng để chặn C lại thì bị C dùng dao nhọn đâm 01 nhát trúng vào vai trái của D. D bị thương bỏ chạy vào nhà hàng xóm để băng bó vết thương. Đào Xuân C tiếp tục cầm dao chạy ra ngoài ngõ đứng thì Vũ Ngọc T đến gần dùng tay đấm 02 cái vào vai của C. C có dùng dao nhọn đang cầm trên tay đâm 01 nhát trúng vào bắp tay trái của T và nói “Còn thằng nào vào nữa là tao đâm”. Do có nhiều người can ngăn nên C bỏ đi về cùng một số người trong nhóm của chú rể. Trên đường đi về đến đoạn cầu Vượt Nam Định thuộc xã T, huyện V thì C đã vứt con dao nhọn xuống sông Đào.
Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V đã truy tìm nhưng không tìm thấy con dao mà C đã dùng để gây thương tích cho D, T, Q, D và T.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 309/20/TgT ngày 23-12- 2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Nam Định đã kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Sơn T là 46%. Cơ chế hình thành vết thương là do vật nhọn, cứng có cạnh sắc tác động gây thương tích.
Ngày 18-01-2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V trưng cầu giám định bổ sung tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh T. Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 16/201/TgT ngày 02-02-2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Nam Định đã kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Sơn T là 46%. Cơ chế hình thành vết thương là do vật nhọn, cứng có cạnh sắc tác động gây thương tích.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 310/20/TgT ngày 23-12- 2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Nam Định đã kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Văn D là 51%. Cơ chế hình thành vết thương là do vật nhọn, cứng có cạnh sắc tác động gây thương tích.
Ngày 18-01-2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V trưng cầu giám định bổ sung tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh T. Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 17/201/TgT ngày 02-02-2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Nam Định đã kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Văn D là 52%. Cơ chế hình thành vết thương là do vật nhọn, cứng có cạnh sắc tác động gây thương tích.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 18/21/TgT ngày 03-02- 2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Nam Định đã kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Vũ Ngọc Q là 01%. Cơ chế hình thành vết thương là do vật nhọn, cứng có cạnh sắc tác động gây thương tích.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 19/21/TgT ngày 03-02- 2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Nam Định đã kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Vũ Đức D là 01%. Cơ chế hình thành vết thương là do vật nhọn, cứng có cạnh sắc tác động gây thương tích.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 20/21/TgT ngày 03-02- 2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Nam Định đã kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Vũ Ngọc T là 01%. Cơ chế hình thành vết thương là do vật nhọn, cứng có cạnh sắc tác động gây thương tích.
Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, Ông Đào Xuân C là bố đẻ của bị cáo Đào Xuân C đã: Bồi thường cho anh Nguyễn Sơn T và Nguyễn Văn D, mỗi người 90.000.000đồng; bồi thường cho anh Vũ Ngọc T số tiền 15.000.000đồng; bồi thường cho các anh Vũ Ngọc Q và Vũ Đức D mỗi người 10.000.000đồng. Anh T, anh D, anh D, anh Q, anh T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.
Cáo trạng số 23/CT - VKSVB ngày 09-4-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Đào Xuân C về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 4 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
* Bị cáo C đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi gây thương tích cho các anh D, T, Q, D và T của mình đúng như nội dung đã nêu trên và xin giảm nhẹ một phần hình phạt.
* Ông Đào Xuân C trình bày: Số tiền bồi thường thiệt hại cho anh D, anh T, anh Q, anh D và anh T là của gia đình ông. Ông tự nguyện bồi thường cho bị hại theo sự ủy quyền của bị cáo và không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về số tiền đó.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V thực hành quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố hành vi của bị cáo Đào Xuân C về tội “Cố ý gây thương tích” như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đào Xuân C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
- Về hình phạt: Áp dụng điểm đ khoản 4 Điều 134; điểm b, điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đào Xuân C từ 04 năm 02 tháng đến 04 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 31-01-2021.
- Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 04 mảnh đĩa vỡ bằng sứ màu trắng.
- Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo C phải chịu theo quy định pháp luật.
* Người bào chữa cho bị cáo Đào Xuân C là bà Bùi Tố Q trình bày: Bị cáo phạm tội khi tuổi đời còn trẻ; sau khi phạm tội bị cáo đã tích cực tác động đến gia đình để bồi thường thiệt hại cho người bị hại; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện ra đầu thú. Hơn nữa, người bị hại cũng có lỗi và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 4 Điều 134; điểm b, điểm c, điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất theo truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện V.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về chứng cứ và tội danh đối với hành vi của bị cáo: Bị cáo Đào Xuân C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với các tài liệu chứng cứ của vụ án như: Lời khai của người bị hại và những người làm chứng; Biên bản khám nghiệm hiện trường; Bản kết luận giám định pháp y về thương tích của Trung tâm pháp y tỉnh Nam Định và vật chứng của vụ án nên có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 21-12-2020, tại rạp đám cưới của gia đình ông Vũ Đình C ở thôn Đ, xã Đ, huyện V, tỉnh Nam Định, do có việc xô xát, cãi chửi nhau của hai nhóm thanh niên bên nhà cô dâu và bên nhà chú rể về việc hát Karaoke nên Đào Xuân C đã có hành vi dùng dao nhọn đâm 01 nhát vào bụng anh Nguyễn Văn D; đâm 01 nhát vào sườn trái của anh Nguyễn Sơn T; đâm 01 nhát vào đùi chân trái của Vũ Ngọc Q; đâm 01 nhát vào vai trái của anh Vũ Đức D và đâm 01 nhát vào bắp tay trái của anh Vũ Ngọc T, gây thương tích cho anh D với tỷ lệ thương tật là 52%, gây thương tích cho anh T với tỷ lệ thương tật là 46% và gây thương tích cho anh Q, anh D, anh T với tỷ lệ thương tật mỗi người là 01%.
Vũ Ngọc Q, Vũ Đức D và Vũ Ngọc T có đơn đề nghị không yêu cầu khởi tố, xử lý hình sự đối với Đào Xuân C.
Đối chiếu hành vi nêu trên của bị cáo Đào Xuân C với những quy định của pháp luật thì hành vi đó của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 4 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.
[3]. Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm tới sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ và còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.
[4]. Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu đã bị xử phạt hành chính về hành vi xâm phạm sức khỏe người khác.
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo ủy quyền cho bố đẻ bồi thường thiệt hại cho người bị hại nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Người bị hại cũng có lỗi và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[5]. Về đường lối xử lý hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, khi phạm tội là người dưới 18 tuổi nên áp dụng các Điều 54; Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt như vậy mới thể hiện sự nhân đạo của pháp luật.
[6]. Về bồi thường thiệt hại: Người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[7]. Về xử lý vật chứng: 04 (Bốn) mảnh đĩa vỡ bằng sứ màu trắng là vật chứng không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.
[8]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.
[9]. Trong giai đoạn điều tra, truy tố thì người bào chữa cho bị cáo Đào Xuân C còn có luật sư Nguyễn Hồng T và luật sư Đinh Thị N. Tuy nhiên, ngày 04-5- 2021, Công ty Luật TNHH Quốc tế Hồng Thái và Đồng nghiệp đã có văn bản thông báo về việc dừng bào chữa cho bị cáo Đào Xuân C trong phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân huyện V. Do đó, không xác định luật sư Nguyễn Hồng T và luật sư Đinh Thị N là người bào chữa cho bị cáo Đào Xuân C.
Trong vụ án này, anh Vũ Ngọc T, anh Vũ Ngọc Q, anh Vũ Đức D đều bị Đào Xuân C gây thương tích với tỷ lệ thương tật là 01%. Tuy nhiên, anh T, anh D và anh Q đều có đơn đề nghị không khởi tố vụ án hình sự đối với C. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V không xem xét xử lý trách nhiệm hình sự về hành vi gây thương tích của C đã gây ra cho anh Q, anh T, anh D là có căn cứ.
Đối với anh Nguyễn Văn D đã có hành vi dùng đĩa sứ ném trúng vào đầu của Đào Xuân C; anh Vũ Ngọc T có hành vi dùng tay đấm C ; anh Vũ Ngọc Q có hành vi dùng tay đẩy C để đánh nhưng chưa đánh được C. Hành vi trên của D, T, Q chưa gây thương tích gì cho C. Công an huyện V đã quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Văn D, Vũ Ngọc T, Vũ Ngọc Q là phù hợp. Đồng thời, bị cáo C cũng không yêu cầu D, T, Q phải bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm đ khoản 4 Điều 134; điểm b, điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật Hình sự;
Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Tuyên bố bị cáo Đào Xuân C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
2. Xử phạt bị cáo Đào Xuân C 04 (Bốn) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 31-01-2021.
3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 04 (Bốn) mảnh đĩa vỡ bằng sứ màu trắng có kích thước (16x6)cm; (9,5x6,5)cm; (14,5x5)cm; (15,5 x4)cm.
(Vật chứng có đặc điểm như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 12-4-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V).
4. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đào Xuân C phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
5. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo, người bào chữa, đại diện hợp pháp của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì các bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiện thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 22/2021/HS-ST ngày 11/05/2021 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 22/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về