Bản án 22/2021/DSST ngày 18/05/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 22/2021/DSST NGÀY 18/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 18/5/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 02/2021/TLST-DS ngày 11/01/2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2021/QĐXXST-DS ngày 09/4/2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 22/QĐST-DS ngày 28/4/2021 giữa:

Nguyên đơn: Ngân hàng T Địa chỉ: 201-203 C, phường 4, quận 3, TP H Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Quốc T, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Nguyễn Đức L, chức vụ:

Chuyên viên xử lý nợ. (Có mặt).

Bị đơn: Ông Đinh Thanh L và bà Đinh Thị Thúy H. (Đều vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn X, xã E, huyện K, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngày 13/4/2018 ông Đinh Thanh L và bà Đinh Thị Thúy H, trú tại thôn X I, xã E, huyện K, tỉnh Đ đã ký kết giấy nhận nợ số 03/GNN-0345/2016/502-CV với Ngân hàng T - Chi nhánh Đ để vay số tiền là 120.000.000 đồng (Một trăm hai mươi triệu đồng), mục đích vay đầu tư các khoản mục chăm sóc cà phê trồng tiêu mới. Lãi suất trong hạn 11%/năm, lãi suất được điều chỉnh 03 tháng/lần, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, lãi chậm trả lãi 10%/năm. Thời hạn vay 12 tháng (từ ngày 13/4/2018 đến ngày 13/4/2019).

Để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ, ông Đinh Thanh L và bà Đinh Thị Thúy H đã ký kết hợp đồng thế số 0345/01/2016/502-BĐ ngày 13/9/2016. Tài sản thế chấp là: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất diện tích 4.300 m2, tờ bản đồ số 20, thửa đất số 90, địa chỉ: thị trấn K, huyện K, tỉnh Đ theo giấy chứng nhận QSD đất số P 17351 do UBND huyện K cấp ngày 29/10/1999 cho hộ Y Di Niê KDăm, ngày 10/6/2015 đã chuyển nhượng cho ông Đinh Thanh L và bà Đinh Thị Thúy H theo hồ sơ 706./.

Quá trình vay vốn tại Ngân hàng T, thì ông Đinh Thanh L và bà Đinh Thị Thúy H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ gốc và nợ lãi phát sinh. Mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc, tạo điều kiện để ông L, bà H trả nợ nhưng ông L, bà H vẫn không thực hiện. Gần đây ông L, bà H còn có biểu hiện bất hợp tác, tìm cách lẩn tránh và không có thiện chí giải quyết nợ vay cho Ngân hàng. Do đó ngân hàng khởi kiện để yêu cầu ông Lương và bà Hòa trả toàn bộ số nợ gốc là 120.000.000 đồng cùng với lãi suất trong hạn và quá hạn cho ngân hàng kể từ ngày vay cho đến nay theo giấy nhận nợ đã ký kết.

Sau khi ông L, bà H thanh toán hết toàn bộ số nợ cho Ngân hàng thì ngân hàng sẽ có trách nhiệm giao trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà ông L , bà H đã thế chấp để đảm bảo khoản vay. Nếu vi phạm kỳ hạn trả nợ thì Ngân hàng được quyền đề nghị thi hành án phát mãi tài sản là quyền sử đất của ông L, bà H đã được thế chấp ghi cụ thể trong hợp đồng thế chấp để thu hồi nợ theo quy định.

Quá trình giải quyết vụ án, ông Đinh Thanh L và bà Đinh Thị Thúy H mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn không có mặt. Qua xác minh tại địa phương xác định: ông Đinh Thanh L và bà Đinh Thị Thúy H có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ: Thôn X, xã E, huyện K, tỉnh Đ, hiện nay ông L, bà H đã đi khỏi địa phương nhưng không khai báo tạm vắng. Tòa án đã kết hợp với chính quyền địa phương niêm yết giấy triệu tập nhiều lần nhưng ông L, bà H vẫn không tham gia tố tụng tại Tòa án nên vụ án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án và đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Đinh Thanh L và bà Đinh Thị Thúy H phải trả cho nguyên đơn khoản tiền nợ gốc đã vay và lãi suất phát sinh theo giấy nhận nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ nội dung đơn khởi kiện và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26 và điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, nguyên đơn có mặt, bị đơn ông Đinh Thanh L, bà Đinh Thị Thúy H vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Do đó căn cứ khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Về nội dung vụ án: Ngày 13/4/2018 ông Đinh Thanh L và bà Đinh Thị Thúy H ký giấy nhận nợ số 03/GNN-0345/2016/502-CV để vay số tiền 120.000.000 đồng của ngân hàng T. Thời hạn vay 12 tháng (từ ngày 13/4/2018 đến ngày 13/4/2019). Lãi suất trong hạn 11%/năm, lãi suất được điều chỉnh 03 tháng/lần, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, lãi chậm trả lãi 10%/năm. Mục đích vay đầu tư các khoản mục chăm sóc cà phê trồng tiêu mới.

Tài sản thế chấp để đảm bảo cho khoản vay là: Quyền sử dụng đất diện tích 4300 m2, tờ bản đồ số 20, thửa đất số 90, đã được UBND huyện K, tỉnh Đ cấp giấy chứng nhận QSD đất số P 17351 ngày 29/10/1999 cho hộ Y D Niê KDăm, ngày 10/6/2015 đã chuyển nhượng cho ông Đinh Thanh L và bà Đinh Thị Thúy H theo hồ sơ 706./.

[4] Quá trình thực hiện hợp đồng vay, ông Đinh Thanh L và bà Đinh Thị Thúy H không trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng theo như thỏa thuận trong giấy nhận nợ là vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay. Do đó, có căn cứ chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Đinh Thanh L và bà Đinh Thị Thúy H phải trả cho ngân hàng T số tiền gốc đã vay chưa trả là 120.000.000 đồng, cùng với lãi suất phát sinh theo giấy nhận nợ từ ngày vay cho đến ngày xét xử (ngày 18/5/2021) là: 46.580.833 đồng. Tổng gốc và lãi là: 166.580.833 đồng.

Đồng thời buộc ông Đinh Thanh L và bà Đinh Thị Thúy H phải chịu lãi suất tiếp theo đối với số nợ gốc theo thỏa thuận của giấy nhận nợ kể từ ngày 19/5/2021 cho đến khi thanh toán hết số nợ gốc cho Ngân hàng.

[5] Về xử lý tài sản thế chấp: Khi vay tiền ông L, bà H đã ký kết hợp đồng thế số 0345/01/2016/50-BĐ ngày 13/9/2016, để thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất diện tích 4.300 m2, tờ bản đồ số 20, đã được UBND huyện K, tỉnh Đ cấp giấy chứng nhận QSD đất số P 17351 ngày 29/10/1999 cho hộ Y D Niê KDăm, ngày 10/6/2015 đã chuyển nhượng cho ông Đinh Thanh L và bà Đinh Thị Thúy H theo hồ sơ 706./.

Trong trường hợp ông L, bà H không trả được số nợ gốc và lãi suất phát sinh thì Ngân hàng được quyền xử lý tài sản tài sản thế chấp của ông L, bà H để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.

[6] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

[7] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Ngân hàng T được nhận lại khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1, khoản 3 Điều 144; khoản 1 Điều 147, Điều 184; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 463, khoản 1 Điều 466, khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự;

- Áp dụng khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng T.

Buộc ông Đinh Thanh L và bà Đinh Thị Thúy H phải trả cho Ngân hàng T tổng số tiền là: 166.580.833 đồng (Một trăm sáu mươi sáu triệu năm trăm tám mươi ngàn tám trăm ba mươi ba ba đồng).

Trong đó số tiền gốc còn nợ là 120.000.000 đồng cùng với tiền lãi phát sinh theo giấy nhận nợ cho đến ngày xét xử (ngày 18/5/2021) là: 46.580.833 đồng.

Tiếp tục tính lãi phát sinh theo giấy nhận nợ kể từ ngày 19/5/2021 cho đến khi ông Đinh Thanh L, bà Đinh Thị Thúy H trả xong nợ.

Ngân hàng T phải trả cho ông Đinh Thanh L, bà Đinh Thị Thúy H 01 giấy chứng nhận QSD đất số P 17351, do UBND huyện K cấp ngày 29/10/1999 cho hộ Y D Niê KDăm, ngày 10/6/2015 đã chuyển nhượng cho ông Đinh Thanh L và bà Đinh Thị Thúy H theo hồ sơ 706./. sau khi ông Đinh Thanh L, bà Đinh Thị Thúy H trả xong nợ.

[2] Trong trường hợp ông Đinh Thanh Lương và bà Đinh Thị Thúy Hòa không trả được nợ thì Ngân hàng T được quyền yêu cầu xử lý tài sản mà ông Đinh Thanh L và bà Đinh Thị Thúy H đã thế chấp cho Ngân hàng theo hợp đồng thế chấp số 0345/01/2016/502-BĐ ngày 13/9/2016 để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.

[3] Về án phí: Ông Đinh Thanh L, bà Đinh Thị Thúy H phải nộp 8.329.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ngân hàng T không phải chịu án phí và được nhận lại số tiền 3.910.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2019/0015141 ngày 08/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.

[4] Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quyết định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2021/DSST ngày 18/05/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:22/2021/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Năng - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;